Cùng với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhu cầu cung cấp thông tin từ Việt Nam ra thế giới và đưa thông tin trên thế giới đến với Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết. TTĐN là hoạt động thông tin hướng vào nhiều đối tượng ở nước ngoài cũng như trong nước nhằm tạo sự hiểu biết về Việt Nam, xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận, đặc biệt là công chúng nước ngoài đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đồng thời xây dựng góc nhìn của dư luận trong nước về tình hình thế giới.
Trong thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác thông tin đối ngoại. Ngày 2/8/2017, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 16 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020” và Chỉ thị 26-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) về công tác thông tin đối ngoại. Báo cáo nhấn mạnh cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại:
Có kế hoạch sử dụng hiệu quả các chương trình, sản phẩm thông tin đối ngoại có chất lượng tốt thông qua việc phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan, đơn vị, nhất là của các cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực với các báo, đài địa phương nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, đồng thời bảo đảm tính thống nhất trong công tác tuyên truyền đối ngoại. Tận dụng hơn nữa vai trò của báo chí nước ngoài, chuyên gia, học giả, cá nhân có uy tín quốc tế trong thông tin đối ngoại. [4, 19]
Các cơ quan truyền thông đại chúng đã tích cực thông tin về các hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước, về quảng bá hình ảnh Việt Nam, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại được đánh giá là đã chủ động và đổi mới hơn thông qua các hình thức như mở các cơ quan đại diện báo chí, các cơ quan thường trú, các phân xã tại nước ngoài, cử các phóng viên tới hiện trường sự việc nhằm đưa đến công chúng những thông tin cập nhật, chính xác và thiết thực.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn ngày càng sôi động, phong phú, phức tạp và nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng, đặc biệt là nhóm công chúng mục tiêu của thông tin đối ngoại (nhân dân, chính phủ các quốc gia trên thế giới, người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài ở Việt Nam), là những người có những đặc điểm khác biệt như địa bàn sinh sống , trình độ học vấn cao, sự lựa chọn các kênh thông tin đa dạng, phong phú thì chất lượng sản phẩm báo chí đối ngoại còn có những hạn chế về cả về nội dung và hình thức. Thực tế cho thấy, để có được một sản phẩm báo chí nói chung và sản phẩm báo chí đối ngoại nói riêng có chất lượng tốt, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đối với công chúng thì quy trình sản xuất sản phẩm giữ vai trò rất quan trọng. Trong quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại hiện nay, ngoài những ưu điểm đã có được thì vẫn còn có nhiều những hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm cũng như hiệu quả tiếp nhận thông tin của công chúng. Chính vì vậy, các sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay muốn thu hút được đông đảo công chúng thì cần có sự đổi mới mạnh mẽ ngay từ quy trình sản xuất sản phẩm, nhằm phát huy những thế mạnh, đồng thời khắc phục những khâu hạn chế, bất cập để có được sản phẩm báo chí đối ngoại chất lượng hơn, ngày càng tiếp cận gần và rộng hơn với công chúng của mình.
Từ những vấn đề trên, từ hai bình diện lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay đều đặt ra những yêu cầu cần phải được nghiên cứu, giải quyết, chỉ ra cơ sở, nội dung, lối đi và cơ chế vận hành, mở đường giải quyết vấn đề cấp thiết này. Mặt khác, giải quyết được vấn đề sẽ đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí đối ngoại. Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay” làm luận án Tiến sĩ ngành Báo chí học.
28 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 621 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN THỊ THƯƠNG HUYỀN
QUY TRÌNH SẢN XUẤT SẢN PHẨM BÁO CHÍ
ĐỐI NGOẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ BÁO CHÍ HỌC
Hà Nội – 2018
Công trình được hoàn thành tại
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS,TS. Nguyễn Ngọc Oanh
PGS,TS. Phạm Văn Linh
PHẢN BIỆN 1:
PHẢN BIỆN 2:
PHẢN BIỆN 3:
LUẬN ÁN ĐƯỢC BẢO VỆ TRƯỚC HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CẤP HỌC VIỆN TẠI HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhu cầu cung cấp thông tin từ Việt Nam ra thế giới và đưa thông tin trên thế giới đến với Việt Nam ngày càng trở nên cấp thiết. TTĐN là hoạt động thông tin hướng vào nhiều đối tượng ở nước ngoài cũng như trong nước nhằm tạo sự hiểu biết về Việt Nam, xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận, đặc biệt là công chúng nước ngoài đối với sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đồng thời xây dựng góc nhìn của dư luận trong nước về tình hình thế giới.
Trong thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác thông tin đối ngoại. Ngày 2/8/2017, Ban Tuyên giáo Trung ương đã ban hành báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 16 của Bộ Chính trị (Khóa XI) về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020” và Chỉ thị 26-CT/TW của Ban Bí thư (khóa X) về công tác thông tin đối ngoại. Báo cáo nhấn mạnh cần tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại:
Có kế hoạch sử dụng hiệu quả các chương trình, sản phẩm thông tin đối ngoại có chất lượng tốt thông qua việc phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan, đơn vị, nhất là của các cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực với các báo, đài địa phương nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, đồng thời bảo đảm tính thống nhất trong công tác tuyên truyền đối ngoại. Tận dụng hơn nữa vai trò của báo chí nước ngoài, chuyên gia, học giả, cá nhân có uy tín quốc tế trong thông tin đối ngoại. [4, 19]
Các cơ quan truyền thông đại chúng đã tích cực thông tin về các hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước, về quảng bá hình ảnh Việt Nam, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Đặc biệt hoạt động của các cơ quan báo chí đối ngoại được đánh giá là đã chủ động và đổi mới hơn thông qua các hình thức như mở các cơ quan đại diện báo chí, các cơ quan thường trú, các phân xã tại nước ngoài, cử các phóng viên tới hiện trường sự việc nhằm đưa đến công chúng những thông tin cập nhật, chính xác và thiết thực.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn ngày càng sôi động, phong phú, phức tạp và nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng, đặc biệt là nhóm công chúng mục tiêu của thông tin đối ngoại (nhân dân, chính phủ các quốc gia trên thế giới, người Việt Nam ở nước ngoài, người nước ngoài ở Việt Nam), là những người có những đặc điểm khác biệt như địa bàn sinh sống , trình độ học vấn cao, sự lựa chọn các kênh thông tin đa dạng, phong phú thì chất lượng sản phẩm báo chí đối ngoại còn có những hạn chế về cả về nội dung và hình thức... Thực tế cho thấy, để có được một sản phẩm báo chí nói chung và sản phẩm báo chí đối ngoại nói riêng có chất lượng tốt, đáp ứng được đầy đủ nhu cầu đối với công chúng thì quy trình sản xuất sản phẩm giữ vai trò rất quan trọng. Trong quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại hiện nay, ngoài những ưu điểm đã có được thì vẫn còn có nhiều những hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm cũng như hiệu quả tiếp nhận thông tin của công chúng. Chính vì vậy, các sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay muốn thu hút được đông đảo công chúng thì cần có sự đổi mới mạnh mẽ ngay từ quy trình sản xuất sản phẩm, nhằm phát huy những thế mạnh, đồng thời khắc phục những khâu hạn chế, bất cập để có được sản phẩm báo chí đối ngoại chất lượng hơn, ngày càng tiếp cận gần và rộng hơn với công chúng của mình.
Từ những vấn đề trên, từ hai bình diện lý luận và thực tiễn, việc nghiên cứu về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay đều đặt ra những yêu cầu cần phải được nghiên cứu, giải quyết, chỉ ra cơ sở, nội dung, lối đi và cơ chế vận hành, mở đường giải quyết vấn đề cấp thiết này. Mặt khác, giải quyết được vấn đề sẽ đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí đối ngoại. Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay” làm luận án Tiến sĩ ngành Báo chí học.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận chung về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại, mô tả về thực trạng quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. Từ đó đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa, phân tích và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về báo chí đối ngoại và quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại.
Thứ hai, đánh giá thực trạng về quy trình sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam thông qua kết quả khảo sát một số tòa soạn báo chí đối ngoại; nêu rõ nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với quy trình sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay và thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu các bước trong quy trình sản xuất sản phẩm và các yếu tố tác động tới quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở 4 kênh báo chí đối ngoại chủ lực của Việt Nam hiện nay, gồm: báo Vietnam News, kênh phát thanh đối ngoại quốc gia VOV5, kênh truyền hình đối ngoại VTV4 và báo điện tử VietnamPlus. Ngoài ra tác giả cũng khảo sát quy trình sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại thuộc Đài PTTH Quảng Ninh nhằm so sánh, tìm ra sự khác biệt về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại của trung ương với sản phẩm báo chí đối ngoại của địa phương.
5. Giả thuyết nghiên cứu của luận án
Khi tiến hành nghiên cứu chúng tôi đặt ra các giả thuyết sau:
- Bằng quan sát và nghiên cứu, phân tích tài liệu, chúng tôi cho rằng báo chí đối ngoại có vai trò quan trọng trong công tác TTĐN ở Việt Nam hiện nay. Báo chí nói chung là lực lượng nòng cốt, gánh vác trách nhiệm to lớn nhất trong hoạt động thông tin đối ngoại của nước nhà. Bên cạnh đó, một số cơ quan báo chí đối ngoại được lựa chọn là cơ quan báo chí chủ lực trong công tác TTĐN như Thông tấn xã Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam chủ lực trong báo chí ở đây được hiểu không chỉ ở phạm vi, đối tượng thông tin rộng cả trong và ngoài nước mà còn bao hàm cả khía cạnh trực tiếp là cơ quan báo chí có chức năng tham gia chỉ đạo, định hướng và chi phối thông tin, là các kênh thông tin chính thống, chủ yếu trên các loại hình báo chí, thể hiện quan điểm, tiếng nói chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam có những đặc trưng riêng và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả của sản phẩm báo chí đối ngoại. Những đặc trưng này xuất phát từ yêu cầu của báo chí đối ngoại, đặc điểm của công chúng mục tiêu như ngôn ngữ, địa bàn, trình độ, thái độ chính trị
- Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế khiến việc tiếp cận đối tượng công chúng mục tiêu vẫn còn những khó khăn. Quy trình này cần có những thay đổi phù hợp. Các nguồn cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí đối ngoại ngày càng nhiều và nhanh chóng hơn như hệ thống phân xã, cơ quan thường trú, đội ngũ công tác viên ở nước ngoài. Ngoài ra, việc sản xuất sản phẩm trực tiếp bằng tiếng nước ngoài, chú trọng thay đổi các khâu biên phiên dịch mang lại hiệu quả cao cho sản phẩm, khiến cho công chúng mục tiêu của các cơ quan báo chí đối ngoại dễ dàng tiếp nhận sản phẩm hơn.
6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
6.1 Cơ sở lý thuyết
Luận án tiếp cận mục tiêu và các nội dung nghiên cứu dựa trên những lý thuyết chính sau đây:
Lý thuyết truyền thông và truyền thông đại chúng
Những khái niệm, lý thuyết, mô hình, thực hành căn bản về truyền thông được phân tích và giới thiệu trong công trình nghiên cứu “Truyền thông – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” của PGS,TS. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) và ThS. Đỗ Thị Thu Hằng xuất bản năm 2006 [21]. Cụ thể như sau:
+ Các lý thuyết: thâm nhập xã hội, phân tích (xét đoán) xã hội liên quan đến việc xác định đối tượng công chúng mà báo chí đối ngoại hướng đến, từ đó các khâu lựa chọn nội dung thông điệp, tìm địa điểm, thời gian nhằm thể hiện tác phẩm về nội dung và hình thức được phù hợp và hiệu quả hơn.
+ Lý thuyết hành động lý tính và lý thuyết thuyết phục nhằm hướng đến khả năng thuyết phục trong hoạt động truyền thông, từ đó đối tượng thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi. Lý thuyết này có thể áp dụng một cách hiệu quả khi xây dựng các chương trình với nội dung như nhân quyền, phản bác các luận điệu xuyên tạc Áp dụng lý thuyết này, các chủ thể sản xuất sản phẩm của các cơ quan báo chí đối ngoại có thể chuyển tải nội dung chương trình đúng với mục tiêu mà nhóm làm chương trình hướng đến và thuyết phục đối tượng về lý trí và cảm xúc.
Bên cạnh những lý thuyết này, chúng tôi cũng căn cứ vào một số lý thuyết truyền thông khác trên thế giới để làm cơ sở cho nghiên cứu của mình:
+ Lý thuyết Viên đạn ma thuật (tạm dịch từ nguyên gốc tiếng Anh: Hypodermic needles” hay “magic bullet”) cho thấy phần lớn công chúng sẽ thụ động và bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các phương tiện truyền thông. Họ mặc nhiên chấp nhận những thông điệp mà họ nhận được từ các phương tiện truyền thông mà không cần phải xem xét lại. Như vậy, áp dụng lý thuyết này hiệu quả khi xây dựng nội dung thông tin đối ngoại trên các sản phẩm báo chí đối ngoại khiến cho thông điệp được “bắn thẳng” vào công chúng và thâm nhập vào tâm trí của họ giống như một viên đạn ma thuật, tạo ra các phản ứng giống nhau ở mọi người.
+ Lý thuyết “thiết lập chương trình nghị sự” (tạm dịch từ nguyên gốc tiếng Anh: Agenda setting theory) cho thấy tính hiệu quả và khả năng tác động của truyền thông nói chung và báo chí nói riêng trong việc định hình ra “bức tranh” về một sự thật, sự kiện trong đầu công chúng. Các cơ quan báo chí báo chí đối ngoại với tôn chỉ, mục đích của mình cũng như đối tượng công chúng để “lựa chọn” vấn đề và nội dung thông tin đối ngoại để sản xuất và cung cấp cho công chúng mục tiêu của mình những thông tin “đúng sự thật”. Lý thuyết này tạo cơ sở cho việc thiết kế thông điệp mà những người sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại muốn chuyển tải, cũng như việc lựa chọn kênh chuyển tải, thời gian, tần suất chuyển tải thông điệp ấy để tăng hiệu quả tác động đến đối tượng tiếp nhận.
+ Lý thuyết đóng khung (tạm dịch từ nguyên gốc tiếng Anh: Framing theory) đưa ra nguyên nhân lý giải vì sao mỗi đối tượng công chúng lại có những cách diễn giải khác nhau về cùng một thông tin tiếp nhận được trên các sản phẩm báo chí. Đó là vì khán giả cũng có “khung” nhận thức riêng của riêng họ, do kinh nghiệm, kiến thức cá nhân trước đó của họ. Khán giả sử dụng khung của họ để giải thích các thông điệp truyền thông. Việc đóng khung đối với các nhà báo cũng chính là quá trình “quyết định xem cái gì được chọn, cái gì bị loại bỏ, và cái gì được nhấn mạnh”. Điều này liên quan đến tôn chỉ, mục đích của từng tòa soạn báo, từ đó những người sản xuất sản phẩm xác định được nội dung và hình thức truyền tải thông điệp đến công chúng cho phù hợp.
6.2 Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên cơ sở thực tiễn vận hành quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở một số cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực ở Việt Nam hiện nay với những ưu điểm và hạn chế thể hiện qua các số liệu thống kê, kết quả điều tra khảo sát, phỏng vấn chuyên sâu do chính tác giả thực hiện và thu thập từ những kết quả nghiên cứu có liên quan.
6.3 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp sau đây:
- Phương pháp khảo sát thực tiễn: Phương pháp này dùng để xác định ý tưởng nghiên cứu, phác thảo bức tranh về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại và những vấn đề đặt ra đối với quy trình này ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được tiến hành đối với các công trình khoa học lý luận về báo chí, thông tin đối ngoại và quy trình sản xuất sản phẩm báo chí của các tác giả trong và ngoài nước đã công bố. Phương pháp này được sử dụng với mục đích khái quát, bổ sung hệ thống lý thuyết về báo chí, báo chí đối ngoại, thông tin đối ngoại, quy trình sản xuất sản phẩm báo chí. Đây là những lý thuyết cơ sở đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và đưa ra những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: phương pháp này dung để phân tích, đánh giá và tổng hơp những kết quả nghiên cứu nhằm chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân cùng những thách thức trong quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp phỏng vấn sâu (PVS) và thảo luận nhóm: tổng số 20 người đang công tác ở các cơ quan quản lý nhà nước, lãnh đạo quản lý ở các cơ quan báo chí đối ngoại (TBT, Thư ký tòa soạn...), có kinh nghiệm công tác báo chí ở nước ngoài... Phương pháp này nhằm lấy ý kiến về quan điểm báo chí đối ngoại, quy trình sản xuất, những yêu cầu về phóng viên, biên tập viên, về nội dung và hình thức của sản phẩm sao cho phù hợp với công chúng mục tiêu của sản phẩm báo chí đối ngoại.
- Phương pháp phỏng vấn anket: cỡ mẫu phỏng vấn 350 người. Đây là những người trực tiếp tham gia vào quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể: TTXVN (VietnamPlus, Vietnam News): 120 phiếu; VOV5: 100 phiếu; VTV4: 80 phiếu; các cơ quan báo chí khác (những người làm tin quốc tế...): 50 phiếu bao gồm báo Tuổi trẻ TPHCM, Thanh Niên, Sài Gòn Giải Phóng, Đầu tư, tạp chí Heritage. Phương pháp này nhằm lấy ý kiến về việc thực hiện các bước trong quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí đối ngoại và quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại. Từ đó rút ra những đặc trưng khác biệt trong quy trình sản xuất của sản phẩm/tác phẩm báo chí đối ngoại so với các sản phẩm/tác phẩm báo chí thông thường như thế nào.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo thêm một số phương pháp khác như phương pháp phân tích SWOT để phân tích quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại hiện nay và những định hướng phát triển cho tương lai.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu khung lý thuyết, khảo sát thực trạng quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, luận án tìm kiếm phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam.
- Ý nghĩa lý luận
Luận án nghiên cứu, hệ thống hoá chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến hoạt động báo chí đối ngoại; đồng thời xác lập hệ thống khái niệm về báo chí đối ngoại và các khái niệm có liên quan đến đề tài nghiên cứu; làm rõ những vấn đề lý luận về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại đã tác động như thế nào đến hiệu quả của các sản phẩm tới công chúng; những yêu cầu về nội dung và hình thức của các sản phẩm báo chí đối ngoại.
- Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở khung lý thuyết được thiết lâp, luận án khảo sát quy trình sản xuất sản phẩm ở một số cơ quan báo chí đối ngoại ở Việt Nam trên các loại hình báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử) và có sự so sánh với quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở một cơ quan báo chí địa phương (Đài PTTH Quảng Ninh). Luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý báo chí, thông tin đối ngoại và đội ngũ phóng viên, biên tập viên ở các cơ quan báo chí đối ngoại; cung cấp cơ sở ban đầu về lý luận và thực tiễn khi cơ quan báo chí muốn xây dựng, hoàn thiện quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí đối ngoại trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm phong phú thêm tài liệu tham khảo phục vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm báo chí đối ngoại; giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở Học viện Báo chí và Tuyên tuyền và các cơ sở đào tạo khác về những môn học của chuyên ngành Quan hệ quốc tế và thông tin đối ngoại, Báo chí đối ngoại và vấn đề liên quan về “Tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí đối ngoại”, “Truyền thông quốc tế”, “Truyền thông đại chúng trong hoạt động thông tin đối ngoại”.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 8 tiết.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
A. Các công trình nghiên cứu khoa học nước ngoài đã công bố liên quan đến đề tài
Nghiên cứu quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại là một hướng nghiên cứu mới trên cả bình diện trong nước và nước ngoài. Qua quá trình thu thập và tìm hiểu các tài liệu tham khảo cho nghiên cứu luận án, tác giả nhận thấy có 2 loại chủ yếu sau:
- Các giáo trình, sách, bài báo đã được dịch và phổ biến tại Việt Nam;
- Các tài liệu nước ngoài tham khảo trên internet có nguồn gốc rõ ràng.
Những công trình khoa học này ở những quy mô khác nhau đã tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề, như:
Báo chí, truyền thông và những sản phẩm báo chí đã thực sự trở thành vấn đề được nhiều học giả trên thế giới quan tâm, nghiên cứu. Tựu chung lại, các hướng nghiên cứu về truyền thông, báo chí cũng như quy trình sản xuất sản phẩm báo chí trên thế giới là vô cùng đa dạng. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ và nhu cầu ngày càng cao của công chúng đã đem lại những thay đổi nhanh chóng trong xu hướng báo chí và truyền thông. Công nghệ thông tin và truyền thông đã tác động không nhỏ đối với đời sống xã hội, đã khiến cho các tòa soạn báo đều phải thay đổi để phù hợp với các đòi hỏi cao hơn của thị trường báo chí, với thị hiếu của công chúng.
B. Các công trình nghiên cứu khoa học trong nước đã công bố liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu quy trình sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Việt Nam hiện nay là một hướng nghiên cứu mới. Tuy nhiên, các vấn đề về báo chí và truyền thông quốc tế, báo chí đối ngoại, thông tin đối ngoại là những nội dung đã được quan tâm và phát triển. Mỗi công trình có một cách thực hiện khác nhau để phù hợp với mục đích của mình.
B.1. Nhóm các đề tài về báo chí và truyền thông
Những năm qua, báo chí và truyền thông ở Việt Nam phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Một số tác giả, nhà nghiên cứu đã đi sâu làm rõ các vấn đề cụ thể như lý luận về báo chí, bản chất hoạt động báo chí, vấn đề quản lý báo chí và công chúng báo chí... Có thể thấy, các nhà nghiên cứu cơ bản đã đề cập đến các vấn đề báo chí, truyền thông nói chung, đây là những tư liệu quý báu, góp phần làm rõ thực trạng sản xuất sản phẩm báo chí của các tổ chức, đơn vị, địa phương và chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ công tác này trong thời gian tới. Tuy nhiên những nghiên cứu về báo chí đối ngoại vẫn còn ở mức độ. Chúng tôi tham khảo để nhằm phần nào khắc phục khiếm khuyết trên.
B.2. Nhóm các đề tài về quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí, quy trình sản xuất sản phẩm báo chí
Quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí, quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí hay quy trình sản xuất chương trình là đặc thù của mỗi cơ quan, báo chí và mỗi loại hình báo chí. Bởi vậy, các nghiên cứu về các quy trình sản xuất cho thấy có rất nhiều nghiên cứu về quy trình sản xuất sản phẩm báo chí và quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí, mỗi loại hình sẽ có những công đoạn, nhiều khâu khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí thường tuân theo các bước chính như sau: