Chủ đề về truyền dẫn tỷ giá hối đoái luôn được các tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, bởi vì tầm quan trọng của chúng trong quá trình ổn định và phát triển của nền kinh tế. Trong giai đoạn gần đây, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cùng với một trong những mục tiêu chính sách hàng đầu được đề ra đó là kiểm soát lạm phát (cụ thể là ở mức mục tiêu 4% trong năm 2017). Bên cạnh đó, biến động tỷ giá luôn được các nhà điều hành chính sách quan tâm, nhất là trong giai đoạn sắp tới khi nền kinh tế thế giới tiềm ẩn những thay đổi lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Do đó, việc hiểu biết về truyền dẫn tỷ giá (đặc biệt là vấn đề truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát) thật sự rất quan trọng trong việc quản lý chính sách tỷ giá cũng như chính sách tiền tệ một cách phù hợp trong hiện tại và cả trong tương lai
28 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tác động truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TÓM TẮT
Nghiên cứu xem xét truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát tại Việt Nam bằng việc sử dụng mô hình phi
tuyến vectơ tự hồi quy ngưỡng (TVAR) ngưỡng lạm phát và ngưỡng thay đổi tỷ giá, với dữ liệu hàng tháng từ
1/2002 đến 12/2015. Nghiên cứu chỉ ra 2 giá trị ngưỡng lạm phát là 0.0765%/tháng và 0.4004%/tháng. Kết quả
nghiên cứu với ngưỡng lạm phát chỉ ra truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát có ý nghĩa thống kê khi lạm phát vượt trên
mức 0.4004%/tháng. Nghiên cứu chỉ ra 2 giá trị ngưỡng thay đổi tỷ giá là -0.1657%/tháng và 0.8162%/tháng.
Kết quả nghiên cứu với ngưỡng thay đổi tỷ giá chỉ ra truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát có ý nghĩa thống kê khi thay
đổi tỷ giá dưới mức -0.1657%/tháng và khi thay đổi tỷ giá vượt trên mức 0.8162%/tháng.
Từ Khóa: Truyền dẫn tỷ giá, lạm phát, vectơ tự hồi quy ngưỡng, ngưỡng lạm phát, ngưỡng thay đổi tỷ giá.
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ đề về truyền dẫn tỷ giá hối đoái luôn được các tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, bởi
vì tầm quan trọng của chúng trong quá trình ổn định và phát triển của nền kinh tế. Trong giai đoạn gần đây, Việt
Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cùng với một trong những mục tiêu chính sách hàng đầu được
đề ra đó là kiểm soát lạm phát (cụ thể là ở mức mục tiêu 4% trong năm 2017). Bên cạnh đó, biến động tỷ giá
luôn được các nhà điều hành chính sách quan tâm, nhất là trong giai đoạn sắp tới khi nền kinh tế thế giới tiềm ẩn
những thay đổi lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Do đó, việc hiểu biết về truyền dẫn tỷ giá (đặc biệt là
vấn đề truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát) thật sự rất quan trọng trong việc quản lý chính sách tỷ giá cũng như chính
sách tiền tệ một cách phù hợp trong hiện tại và cả trong tương lai.
Tác giả đã lược khảo các nghiên cứu trước đây về chủ đề này và nhận thấy rằng các nghiên cứu trước đây
về truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát tại Việt Nam chỉ tập trung vào việc xem xét mối quan hệ tuyến tính với một số
mô hình kinh tế lượng thông dụng, bao gồm 3 kỹ thuật kinh tế lượng: hồi quy phương trình đơn nhất, mô hình
vectơ tự hồi quy (VAR), và mô hình vectơ hiệu chỉnh sai số (VECM). Tuy nhiên, thông qua khuôn khổ lý thuyết
(mô hình định giá so le theo sức mạnh thị trường và mô hình Mark up) và các bằng chứng thực nghiệm trước
đây (điển hình như Devereux và Yetman, 2010), tác giả nhận thấy rằng truyền dẫn tỷ giá đến các mức giá nội địa
có thể là phi tuyến. Chính vì sự hiện diện của tính phi tuyến trong truyền dẫn tỷ giá cho nên các kỹ thuật kinh tế
lượng tuyến tính có lẽ đưa ra các kết quả ước lượng truyền dẫn tỷ giá không chính xác. Chính vì vậy, tác giả sử
dụng mô hình kinh tế lượng phi tuyến trong nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát tại Việt Nam.
Thông qua việc lược khảo các mô hình kinh tế lượng phi tuyến, tác giả nhận thấy mô hình TVAR có nhiều
điểm thuận lợi hơn so với các mô hình kinh tế lượng phi tuyến khác. Vì vậy, trong luận án này, tác giả sử dụng
mô hình TVAR ứng dụng trong nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát tại Việt Nam.
Luận án của tác giả đề cập 2 vấn đề sau mà rất khác biệt so với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam.
Thứ nhất, môi trường lạm phát có tác động đến phản ứng của các tác nhân kinh tế đối với một cú sốc tỷ
giá. Trong thực tế, các tác nhân kinh tế sẽ thay đổi kỳ vọng lạm phát nếu tỷ lệ lạm phát cao hơn một ngưỡng nhất
định nào đó. Điều này là bởi vì khi nền kinh tế có lạm phát cao, các công ty nhận thấy rằng khi chi phí sản xuất
2
gia tăng vượt quá một ngưỡng nhất định nào đó thì đều trở nên dai dẳng hơn. Do đó, trong một môi trường lạm
phát cao, họ sẽ điều chỉnh giá thường xuyên hơn để duy trì biên lợi nhuận và làm gia tăng chi phí thực đơn.
Thứ hai, mối quan hệ giữa thay đổi tỷ giá và truyền dẫn tỷ giá phản ánh sự đánh đổi trong chiến lược
chính yếu của nhà xuất khẩu để ổn định khối lượng xuất khẩu hay lợi nhuận biên. Mức độ truyền dẫn tỷ giá càng
thấp khi những nhà xuất khẩu thay đổi biên lợi nhuận để nắm giữ hay gia tăng thị phần trong môi trường thay
đổi tỷ giá cao. Tuy nhiên, khi những nhà xuất khẩu muốn ổn định biên lợi nhuận thì lúc này mức độ truyền dẫn
tỷ giá cao.
Qua đó, tác giả nhận thấy thật sự rất cần thiết để nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát tại Việt Nam
bằng phương pháp kinh tế lượng phi tuyến TVAR với ngưỡng lạm phát và ngưỡng thay đổi trong tỷ giá. Trên
thế giới có nhiều nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá phi tuyến, nhưng tại Việt Nam hiện nay số lượng nghiên cứu
truyền dẫn tỷ giá phi tuyến là rất hạn chế. Chính vì vậy, tác giả thực hiện luận án với đề tài “Tác động truyền
dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát tại Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, mục tiêu nghiên cứu chính đó là: Xác định mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến
lạm phát tại Việt Nam bằng việc vận dụng mô hình phi tuyến TVAR.
Từ mục tiêu nghiên cứu này, tác giả đặt ra hai câu hỏi nghiên cứu sau đây:
Truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát ở Việt Nam trong các trạng thái lạm phát khác nhau có
khác nhau không?
Truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát ở Việt Nam trong các trạng thái thay đổi tỷ giá khác
nhau có khác nhau không?
1.3. Tổng quan phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng 4 biến nghiên cứu bao gồm chỉ số giá tiêu dùng (CPI), lỗ hổng sản lượng (GAP),
tỷ giá hối đoái danh nghĩa có hiệu lực đa phương (NEER), và lãi suất tái cấp vốn (RFI) với mô hình TVAR
ngưỡng lạm phát và ngưỡng thay đổi tỷ giá để nghiên cứu truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến lạm phát tại Việt Nam.
1.4. Đóng góp của nghiên cứu
Luận án này bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về tính phi tuyến trong truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến
lạm phát tại Việt Nam, trong khi các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam chỉ tập trung vào việc xem xét truyền
dẫn tỷ giá tuyến tính.
Tác giả sử dụng mô hình phi tuyến TVAR và mô hình này có điểm thuận lợi hơn so với các mô hình phi
tuyến khác, và cụ thể là so với nhóm mô hình tự hồi quy ngưỡng (TAR, ESTAR, LSTAR, DLSTAR).
Tác giả đề cập 2 vấn đề rất khác biệt so với các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam: Thứ nhất, môi trường
lạm phát có tác động đến phản ứng của các tác nhân kinh tế đối với một cú sốc tỷ giá. Thứ hai, mối quan hệ giữa
thay đổi tỷ giá và truyền dẫn tỷ giá phản ánh sự đánh đổi trong chiến lược chính yếu của nhà xuất khẩu để ổn
định khối lượng xuất khẩu hay lợi nhuận biên.
3
Tác giả sử dụng 2 biến ngưỡng trong mô hình nghiên cứu, bao gồm ngưỡng lạm phát và ngưỡng thay đổi
trong tỷ giá dựa trên khung lý thuyết và các lập luận. Ngưỡng lạm phát được sử dụng khá phổ biến trong các
nghiên cứu phi tuyến về truyền dẫn tỷ giá, trong khi đó ngưỡng thay đổi tỷ giá thì lại ít được sử dụng phổ biến.
1.5. Kết cấu nghiên cứu
Nghiên cứu này được kết cấu theo 5 chương: Chương 1: Giới thiệu, Chương 2: Khung lý thuyết và bằng
chứng thực nghiệm về truyền dẫn tỷ giá hối đoái, Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu, Chương 4: Kết
quả nghiên cứu, Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.
CHƢƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
VỀ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
2.1. Lý thuyết về truyền dẫn tỷ giá hối đoái (ERPT)
2.1.1. Khái niệm về truyền dẫn tỷ giá
Goldberg và Knetter (1997) và Campa và Goldberg (2002) xác định truyền dẫn tỷ giá là phần trăm thay
đổi trong giá nhập khẩu tính bằng đồng nội tệ khi tỷ giá danh nghĩa giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu thay
đổi 1%. Khái niệm này có thể được mở rộng ra như Bhattacharya và cộng sự (2011), phần trăm thay đổi trong
các thước đo giá nội địa khác (chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng) khi tỷ giá danh nghĩa thay đổi 1%.
Về mặt lý thuyết, truyền dẫn tỷ giá ở trong phạm vi giữa 0% và 100% phụ thuộc vào các chiến lược định
giá của những nhà xuất khẩu. Nếu giá nhập khẩu thay đổi một lượng đúng bằng với thay đổi trong tỷ giá thì
truyền dẫn tỷ giá là hoàn toàn (Goldberg và Knetter, 1997). Nếu nhà xuất khẩu điều chỉnh giá xuất khẩu theo
đồng tiền riêng của họ một lượng nhỏ hơn thay đổi trong tỷ giá thì truyền dẫn tỷ giá là không hoàn toàn (Osbat
và Wagner, 2006).
Có một số nguyên nhân của truyền dẫn tỷ giá không hoàn toàn mà có liên quan đến nghiên cứu:
Thứ nhất, do sự điều chỉnh lợi nhuận biên phản ứng lại với cú sốc tỷ giá trong môi trường cạnh tranh
không hoàn hảo (Dornbusch, 1987). Theo Rowland (2004), nhiều công ty xuất khẩu và nhập khẩu quyết định giữ
giá không đổi, và cắt giảm hay gia tăng biên lợi nhuận trên giá khi tỷ giá thay đổi. Hành vi này được gọi là hành
vi định giá theo thị trường (pricing-to-market). Hành vi này được nhiều công ty chọn lựa với các tổn thất tạm
thời nhưng không mất thị phần vào tay đối thủ cạnh tranh. Khi đó đã hấp thụ một phần thay đổi trong tỷ giá bằng
việc thay đổi biên lợi nhuận, và truyền dẫn tỷ giá không hoàn toàn.
Thứ hai, các công ty phải chi trả một khoản chi phí thực đơn (menu costs) để điều chỉnh mức giá của họ.
Vì vậy, điều này dẫn đến các công ty điều chỉnh mức giá không thường xuyên và dẫn đến truyền dẫn tỷ giá
không hoàn toàn khi có sự thay đổi trong tỷ giá.
2.1.2. Cơ chế truyền dẫn
Chuỗi định giá (pricing chain) là sự truyền dẫn các cú sốc thông qua các chi phí sản xuất đến giá tiêu dùng
(Landau và Skudelny, 2009). Sự thay đổi trong tỷ giá được truyền dẫn lần lượt đến các mức giá bao gồm giá
nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất, và chỉ số giá tiêu dùng. Truyền dẫn trong giai đoạn đầu là truyền dẫn các thay đổi
4
tỷ giá đến giá nhập khẩu, sau đó là truyền dẫn trong giai đoạn thứ hai là phản ứng của giá tiêu dùng với các thay
đổi trong giá nhập khẩu.
Nhìn chung, thay đổi trong tỷ giá có thể tác động đến giá nội địa thông qua các kênh trực tiếp và gián tiếp.
Kênh truyền dẫn tỷ giá trực tiếp đó là tác động ngắn hạn trực tiếp lên nguyên liệu thô và hàng hóa được
nhập khẩu. Nhìn chung, khi đồng tiền giảm giá dẫn đến giá nhập khẩu trở nên cao hơn và chi phí sản xuất trong
nước gia tăng, và dẫn đến mức giá nội địa tăng lên.
Trong kênh truyền dẫn tỷ giá gián tiếp, khi đồng tiền giảm giá sẽ làm gia tăng xuất khẩu, và dẫn đến làm
gia tăng tổng cầu, và làm cho giá nội địa tăng lên. Hơn thế nữa, khi đồng tiền giảm giá dẫn đến làm gia tăng cầu
hàng hóa trong nước. Sự gia tăng trong tổng cầu dẫn đến sự gia tăng trong cầu lao động, và do đó làm gia tăng
lương, đến lượt nó làm cho mức giá nội địa tăng lên. Bên cạnh đó, sự tăng lên trong cầu hàng hóa thay thế trong
nước sẽ dẫn đến sự gia tăng trong giá bán của các hàng hóa thay thế ở trong nước, dẫn đến làm gia tăng mức giá
nội địa.
2.1.3. Mô hình định giá so le theo sức mạnh thị trƣờng
Mô hình định giá so le theo sức mạnh thị trường được đưa ra trong nghiên cứu của Taylor (2000).
Không giống như trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo với các công ty là người chấp nhận giá, các công ty
thường nhận thấy họ có sức mạnh thị trường bởi vì họ có thể thiết lập được mức giá. Sức mạnh thị trường phụ
thuộc vào 3 điểm sau: sự khác biệt sản phẩm của họ với các sản phẩm khác, tính thay thế sản phẩm của họ bằng
các sản phẩm khác (2 điểm này nằm trong hàm hữu dụng của người tiêu dùng), và phản ứng có thể có của các
công ty khác trên thị trường. Để xem xét giả thuyết sức mạnh định giá thay đổi, Taylor xây dựng nên mô hình
kết hợp tác động của 3 thay đổi trên quyết định giá của một công ty: thay đổi trong chi phí, thay đổi việc thiết lập
giá bởi các công ty khác, thay đổi trong cầu. Mức độ mà một công ty gia tăng trong chi phí hay một sự gia tăng
trong mức giá của các công ty khác là thước đo sức mạnh thị trường, và thay đổi trong sức mạnh thị trường sẽ
làm thay đổi mức độ truyền dẫn tỷ giá.
Mức giá tối ưu tại thời kỳ t được Taylor đưa ra như sau:
xt = 0.125 ∑
Hệ số 0.125 hàm ý rằng sự gia tăng 1 đơn vị trong mức giá của các công ty khác (pt đến pt+3) và sự gia
tăng 1 đơn vị trong chi phí biên (ct đến ct+3) dẫn đến sự gia tăng 1 đơn vị y hệt trong giá xt của công ty. Nếu chỉ
có ct đến ct+3 gia tăng 1 đơn vị thì giá xt gia tăng 0.5 đơn vị.
ct+i là chi phí sản xuất biên của hàng hóa này tại thời kỳ t + i, pt+i là mức giá bình quân của 4 nhóm công ty
trong thời kỳ t+i.
Qua đó có thể nhận thấy mức độ gia tăng trong chi phí biên của một công ty dẫn đến sự gia tăng trong
mức giá riêng của công ty mà mức giá riêng này phụ thuộc vào tính dai dẳng của sự gia tăng chi phí biên. Tương
tự, mức độ gia tăng trong mức giá của các công ty khác sẽ dẫn đến sự gia tăng trong mức giá riêng của công ty
mà mức giá riêng này sẽ phụ thuộc vào tính dai dẳng của sự gia tăng trong mức giá kỳ vọng của các công ty
khác.
5
Sức mạnh định giá phụ thuộc nhiều vào kỳ vọng biến động giá và chi phí trong tương lai. Nếu sự gia tăng
trong chi phí được kỳ vọng kéo dài thì lúc đó cần phải điều chỉnh mức giá với một mức độ lớn hơn. Do đó, sức
mạnh định giá phụ thuộc rất nhiều vào kỳ vọng lạm phát.
2.1.4. Mô hình Mark up
Mô hình Mark up được đưa ra trong nghiên cứu của Campa và Goldberg (2005), Barhoumi (2006), Al-
Abri và Goodwin (2009), và sau này được Junttila và Korhonen (2012) mở rộng, phát triển, cũng như ứng dụng
vào nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá phi tuyến.
Junttila và Korhonen (2012) xem xét một công ty xuất khẩu có sức mạnh định giá hàng hóa trong quốc gia
nhập khẩu. Giá nhập khẩu vào thời kỳ t (
) là một hàm Mark up của nhà xuất khẩu
và chi phí biên
.
= et +
+
et là tỷ giá hối đoái danh nghĩa, được đo lường bằng đồng tiền quốc gia nước ngoài (nhập khẩu) trên mỗi
đơn vị đồng tiền của quốc gia nội địa (xuất khẩu).
Sau đó, Junttila và Korhonen (2012) đã mở rộng mô hình cơ bản bằng việc giả định mức độ thay đổi chính
sách tiền tệ của quốc gia nhập khẩu sẽ xác định sự điều chỉnh Mark up của nhà xuất khẩu. Do đó,
là
một hàm của quan điểm chính sách tiền tệ. Markup được giả định phản ứng với các điều kiện chính sách tiền tệ
(st) trong quốc gia nhập khẩu hay nói cách khác là môi trường chính sách tiền tệ quốc gia nhập khẩu được nắm
bắt bởi biến thông tin (st) mà đóng vai trò trong việc định giá Markup của công ty xuất khẩu. Họ cho rằng truyền
dẫn tỷ giá phụ thuộc vào biến này. Họ giả định rằng các điều kiện chính sách tiền tệ được nắm bắt tốt nhất bởi tỷ
lệ lạm phát hàng năm của quốc gia nhập khẩu được tính trên chỉ số giá tiêu dùng. Sự phụ thuộc chính sách tiền tệ
này được giả định được phản ánh trong chiến lược của công ty mà các điều kiện chính sách tiền tệ quốc gia nhập
khẩu tác động truyền dẫn biến động tỷ giá vào giá nhập khẩu.
Giả định công ty xuất khẩu thiết lập giá trước cho một vài thời kỳ, Markup phản ứng mạnh hơn với các
thay đổi trong tỷ giá nếu lạm phát cao. Do đó, trạng thái lạm phát cao có xu hướng gia tăng truyền dẫn tỷ giá.
Mark up có thể được biểu diễn bằng , trong đó là hàm phi tuyến của lạm phát theo chỉ số giá tiêu dùng
của quốc gia nhập khẩu . Từ đó, đạt được:
= et + +
Trong đó , , là các tham số dương.
Phương trình trên chỉ ra rằng các thay đổi trong tỷ giá cũng có một tác động gián tiếp mà tác động này phụ
thuộc vào môi trường lạm phát của quốc gia nhập khẩu. Họ giả định chỉ có 2 trạng thái lạm phát trong quốc gia
nhập khẩu: lạm phát thấp và lạm phát cao. Họ cũng giả định có giá trị ngưỡng của lạm phát (π*) phân tách giữa
các trạng thái lạm phát này. Trạng thái lạm phát thấp (πt < π*) được xác định là môi trường cạnh tranh mà công
ty xuất khẩu không thể sử dụng chiến lược định giá theo thị trường. Trong trường hợp này truyền dẫn tỷ giá gián
tiếp bằng 0 và công ty sẽ chuyển biến động trong tỷ giá trực tiếp vào giá xuất khẩu mà công ty thiết lập. Trạng
6
thái lạm phát cao (πt > π*) là môi trường mà công ty có thể thực hiện đầy đủ chiến lược định giá theo thị trường
và truyền dẫn tỷ giá trên mức 0.
= 0 khi πt ≤ π* (trạng thái lạm phát thấp)
= > 0 khi πt > π* (trạng thái lạm phát cao)
Họ tìm thấy 2 hệ số truyền dẫn khác nhau trong 2 trạng thái lạm phát. Nếu quốc gia nhập khẩu trong trạng
thái lạm phát thấp, truyền dẫn tỷ giá vào giá nhập khẩu là . Nếu quốc gia nhập khẩu trong trạng thái lạm phát
cao, truyền dẫn tỷ giá vào giá nhập khẩu là + . Do đó, truyền dẫn tỷ giá thấp trong trạng thái lạm phát thấp
so với trạng thái lạm phát cao bởi vì < + . Trạng thái lạm phát thấp là môi trường chính sách tiền tệ mà
công ty nước ngoài đối mặt với sự cạnh tranh trong thị trường xuất khẩu và không thể truyền dẫn tất cả các thay
đổi trong tỷ giá vào các mức giá. Tuy nhiên, trong trạng thái lạm phát cao, công ty có thể truyền dẫn tất cả các
thay đổi trong tỷ giá vào các mức giá. Cụ thể hơn, họ cho rằng lạm phát cao hơn làm gia tăng hệ số truyền dẫn
theo dạng phi tuyến.
= ( + +
Trong đó, tác động của chính sách tiền tệ được dùng để giải thích tác động của tỷ lệ lạm phát lên
truyền dẫn tỷ giá.
Khi tỷ lệ lạm phát dưới hay trên một chút so với mức ngưỡng được xác định trước, hầu hết các công ty
nhận thấy điều này như là sự cần thiết của các thay đổi vừa phải trong chính sách tiền tệ quốc gia nhập khẩu, vì
vậy các công ty xuất khẩu không thay đổi các chiến lược định giá trong tình huống này. Tuy nhiên, khi tỷ lệ lạm
phát bắt đầu gia tăng rõ ràng trên mức ngưỡng, hầu hết các công ty không chắc chắn đây là một tín hiệu thay đổi
thực sự ở mức độ nào trong chính sách tiền tệ, nhưng ngày càng nhiều công ty xuất khẩu nhận thấy điều này và
có thể thay đổi giá xuất khẩu bằng đồng nội tệ. Khi tỷ lệ lạm phát đủ cao so với mức ngưỡng, hầu hết tất cả các
công ty nhận thấy rằng chính sách tiền tệ của quốc gia nhập khẩu thay đổi. Các công ty sẽ xem xét sự thay đổi
trong chính sách tiền tệ khi quyết định chính sách định giá cho các thị trường quốc gia nhập khẩu.
2.1.5. Mối quan hệ giữa thay đổi trong tỷ giá và truyền dẫn tỷ giá
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ giữa truyền dẫn tỷ giá và thay đổi trong tỷ giá nhưng phương
hướng tác động thì không rõ ràng. Sự thay đổi tỷ giá càng cao có quan hệ với truyền dẫn tỷ giá càng thấp (tức là
mối quan hệ ngược chiều) trong môi trường cạnh tranh cao bởi vì những nhà xuất khẩu thay đổi biên lợi nhuận
để nắm giữ hay gia tăng thị phần (Froot và Klemperer, 1989). Nhưng ngược lại, nếu những nhà xuất khẩu có
nhiều khả năng ổn định biên lợi nhuận thì họ sẽ có xu hướng cố định mức giá theo đồng tiền của họ, tức là
truyền dẫn tỷ giá cao và vì vậy tác động kỳ vọng là cùng chiều (Devereux và Engel, 2002). Theo Gaulier và cộng
sự (2008), mối quan hệ này phản ánh sự đánh đổi trong chiến lược chính yếu của nhà xuất khẩu để ổn định khối
lượng xuất khẩu hay lợi nhuận biên. Liệu khi có cú sốc thay đổi được nhìn nhận là tạm thời hay kéo dài bởi
những nhà xuất khẩu. Nếu sự thay đổi là tạm thời thì có khả năng điều chỉnh giảm biên lợi nhuận hơn là gánh
chịu các chi phí liên quan đến thay đổi giá thường xuyên (Froot và Klemperer, 1989).
7
Mann (1986) cũng cho rằng thay đổi tỷ giá tạm thời thì làm cho những nhà xuất khẩu thận trọng hơn trong
việc thay đổi mức giá và càng sẵn lòng hơn điều chỉnh biên lợi nhuận, do đó cắt giảm truyền dẫn tỷ giá. Tuy
nhiên, nếu các công ty kỳ vọng thay đổi tỷ giá là dai dẳng thì có khả năng họ sẽ thay đổi giá hơn là điều chỉnh
biên lợi nhuận để phản ứng lại với các thay đổi trong tỷ giá, mà điều này sẽ làm gia tăng truyền dẫn tỷ giá.
2.2. Lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa lạm phát, tỷ giá hối đoái và lãi suất
2.2.1. Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát dƣới các điều kiện cân bằng quốc tế
(International Parity Conditions)
Tác giả đề cập đến lý thuyết ngang giá sức mua (PPP) khi xem xét mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối
đoái. Lý thuyết ngang giá sức mua được xây dựng dựa trên một số giả định cơ bản. Các giả định này chủ yếu là
tạo ra một thị trường mà không có các rào cản khi thực hiện các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá:
Không có chi phí giao dịch.
Thị trường là hoàn hảo, chính phủ của các quốc gia không sử dụng các hàng rào mậu dịch và các hàng
rào mậu dịch ẩn. Hàng hóa có thể được trao đổi và di chuyển một cách tự do.
Các nhà kinh doanh ch