Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan nền kinh tế toàn cầu giai đoạn 1996–2016
Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính diễn ra sau khi bong bóng bất động sản của
Mỹ nổ kéo theo khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sau đó ảnh hưởng
lên hoạt động xuất, nhập khẩu của các quốc gia đang phát triển. Tuy
nhiên Ngân hàng thế giới đã báo cáo rằng năm 2016 tăng trưởng
kinh tế toàn cầu đã thật sự hồi phục.
1.1.2. Sự khác nhau giữa tài chính công và tăng trưởng kinh tế ở
các nước phát triển và đang phát triển
a) Tỷ lệ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế
Các nước phát triển duy trì sự ổn định kinh tế tốt hơn các
nước đang phát triển (Ngân hàng thế giới, 2017).
Thu thuế, chi tiêu công và kiểm soát tham nhũng: Thu thuế
là thành phần quan trọng nhất trong thu ngân sách của mọi quốc gia.
Các nước đang phát triển đều thu thuế ít hơn các quốc gia phát triển
nhưng họ lại chi tiêu nhiều hơn, và nền kinh tế của họ lại tăng trưởng
khá tốt trong giai đoạn 1996 to 2016. Điều gì làm cho có sự khác biệt
giữa các nhóm nền kinh tế này? Các nhà hoạch định chính sách trên
toàn thế giới đều đang đối mặt với thách thức này.
27 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 396 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
_________
NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN
TÀI CHÍNH CÔNG, QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (Tài chính công)
Mã số: 9340201
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tp. Hồ Chí Minh - 2018
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan nền kinh tế toàn cầu giai đoạn 1996–2016
Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính diễn ra sau khi bong bóng bất động sản của
Mỹ nổ kéo theo khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sau đó ảnh hưởng
lên hoạt động xuất, nhập khẩu của các quốc gia đang phát triển. Tuy
nhiên Ngân hàng thế giới đã báo cáo rằng năm 2016 tăng trưởng
kinh tế toàn cầu đã thật sự hồi phục.
1.1.2. Sự khác nhau giữa tài chính công và tăng trưởng kinh tế ở
các nước phát triển và đang phát triển
a) Tỷ lệ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế
Các nước phát triển duy trì sự ổn định kinh tế tốt hơn các
nước đang phát triển (Ngân hàng thế giới, 2017).
Thu thuế, chi tiêu công và kiểm soát tham nhũng: Thu thuế
là thành phần quan trọng nhất trong thu ngân sách của mọi quốc gia.
Các nước đang phát triển đều thu thuế ít hơn các quốc gia phát triển
nhưng họ lại chi tiêu nhiều hơn, và nền kinh tế của họ lại tăng trưởng
khá tốt trong giai đoạn 1996 to 2016. Điều gì làm cho có sự khác biệt
giữa các nhóm nền kinh tế này? Các nhà hoạch định chính sách trên
toàn thế giới đều đang đối mặt với thách thức này. Tổng thu thuế và
chi tiêu công có thể nói lên hiệu quả của chất lượng và năng lực của
một chính phủ. Hiện nay, mối quan hệ trong dài hạn giữa thu thuế,
chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế đang là một thách thức quan
trọng thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu để hỗ trợ
cho các nhà hoạch định chính sách ban hành được các chính sách tài
khóa phù hợp nhằm vận hành nền kinh tế và kiểm soát lạm phát
trong tương lai. Cho đến bây giờ câu trả lời cho câu hỏi: “Quản trị
nhà nước trong kiểm soát tham nhũng đã điều khiển tài chính công
2
và tăng trưởng kinh tế như thế nào?” vẫn đang là một thách thức cho
các nhà kinh tế trên toàn thế giới.
1.2. Các mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Trước hết, luận án này kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa tài
chính công và tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, nhận diện mối quan hệ
nhân quả giữa thu thuế và chi tiêu tại các quốc gia phát triển và đang
phát triển. Thứ ba, luận án này đánh giá tác động của quản trị nhà
nước lên điều tiết sự ảnh hưởng của tài chính công lên tăng truwonrg
kinh tế theo các nhóm nền kinh tế khác nhau. Để đạt mục tiêu nghiên
cứu, luận án này cố gắng làm rõ các câu hỏi dưới đây:
(1) Tài chính công quan hệ như thế nào với tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn?
(2) Giữa thu thuế và chi tiêu công có mối quan hệ nhân quả lẫn
nhau hay không?
(3) Quản trị nhà nước điều tiết tác động của tài chính công lên
tăng trưởng kinh tế như thế nào?
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án này điều tra mối quan hệ giữa thu thuế, chi tiêu
công và tăng trưởng kinh tế cho 82 quốc gia phát triển và đang phát
triển trong 21 năm từ 1996 đến 2016.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, để trả lời câu hỏi nghiên cứu đầu tiên, luận án này
áp dụng phương pháp kiểm định đồng liên kết theo phương pháp của
Persyn and Westerlund’s (2008) để xác định sự tồn tại trong dài hạn
giữa thu thuế, chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế. Tiếp theo, việc
thực hiện kiểm định Granger giúp cho nghiên cứu này trả lời câu hỏi
nghiên cứu số hai. Ngoài ra để giảm thiểu sự sai chệch do giai đoạn
nghiên cứu phải chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính lớn, luận án
này áp dụng mô hình hệ phương trình đồng thời (SUR) và mô hình
3
SGMM hai bước để đo lường vai trò của quản trị nhà nước trong
việc điều tiết tác động của tài chính công lên tăng trưởng kinh tế.
1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu
Luận án sử dụng bộ số liệu bảng cân bằng cho 82 quốc gia
phát triển và đang phát triển từ 1996 đến 2016. Chúng tôi đã thu thập
các số liệu như Thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ giá trị thương
mại trên tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ lạm phát và dòng tiền đầu tư
trực tiếp nước ngoài ròng từ bộ chỉ số phát triển thế giới từ cơ sở dữ
liệu của ngân hàng thế giới (WDI). Để đo lường vai trò quản trị nhà
nước, nghiên cứu này sử dụng chỉ số kiểm soát tham nhũng từ cơ sở
dữ liệu của ngân hàng thế giới – bộ chỉ số quản trị nhà nước (WGI)
và chỉ số cảm nhận về tham nhũng từ cơ sở dữ liệu của tổ chức Minh
bạch quốc tế (TI). Trong luận án này, tài chính công được đo lường
bởi tỷ lệ tổng thu thuế trên tổng sản phẩm quốc nội và tổng chi tiêu
công trên tổng sản phẩm quốc nội, số liệu này được thu thập từ cơ sở
dữ liệu của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) – trong bộ số liệu phân tích tài
chính nhà nước(GFS).
1.5. Cấu trúc của luận án
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và phát triển các giả thuyết
Chương 3: Các phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế:
Một phân tích trong dài hạn
Chương 5: Kết luận, hàm ý nghiên cứu và các hạn chế
4
CHƯƠNG 2:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Tài chính công
Tài chính công ảnh hưởng lên các hoạt động của nền kinh tế
mỗi ngày bởi vì mối quan hệ giữa chi tiêu của nhà nước trong việc
cung cấp hàng hóa công và năng lực thu thuế (Philips, 1957).
Wagner (1883) nhấn mạnh rằng tài chính công là khoa học nghiên
cứu về bản chất của một nền kinh tế tài khóa nó chú trọng vào hai
đặc điểm chính của nhà nước đó là thu nhập và chi tiêu, đó cũng
chính là thu thuế và chi tiêu công.
a) Thu thuế
“Hillman (2009) đã cho rằng thu thuế bao gồm các loại thuế
khác nhau và nó là nguồn lực chính cung cấp cho việc chi tiêu của
chính phủ. Hơn nữa, tổng thu thuế có thể thay đổi khi tăng thuế suất.
Wellisch (2004) đã kiến nghị rằng các quốc gia thường thu thuế từ
việc sản xuất hàng hóa và điều này làm gia tăng gánh nặng thuế lên
công dân nước họ khi họ tiêu dùng các hàng hóa. Còn McGee (2008)
mô tẳ rằng thu thuế là một công cụ đánh giá năng lực của nhà nước
trong việc cải thiện nỗ lực thuế.”
b) Chi tiêu công
Holley (2011) xác nhận rằng khi chính phủ sử dụng thu thuế
vào chi tiêu để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng thì gọi là chi tiêu công.
Tại các quốc gia kém phát triển, chính phủ các nước thường đối mặt
với áp lực phát triển kinh tế nên họ thường tăng chi tiêu và như thế
họ phải tăng thu thuế để giúp họ có nhiều tiền hơn (Philips, 1957).”
2.1.2. Quản trị nhà nước và tham nhũng
Hague and Martin (2004) cho rằng quản trị nhà nước đại
diện cho các hoạt động ra quyết định tập thể. Chính vì vậy mà các tác
giả này cho rằng nhà nước ra quyết định phụ thuộc vào quyền lực
của người có quyền hành động hơn là quyền hành thực thi. Tuy
nhiên, một quan chức có thể tạo ra quyền lực của mình dài bao lâu là
phụ thuộc vào việc mọi người có chấp nhận các quyết định của anh
ta có đúng đắn hay không, chính vì vậy mà kiểm soát tham nhũng
giữ vai trò quan trọng trong quản trị nhà nước. Ngoài ra,
Dzhumashev (2014) cũng cho rằng tham nhũng đại diện cho chất
5
lượng của quản trị nhà nước và ảnh hưởng lên nền kinh tế tư nhân và
sản xuất hàng hóa công thông qua việc chính phủ sử dụng hiệu quả
của việc chi tiêu cũng như là việc kiểm soát chi phí sản xuất đến đâu.
2.1.3 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế giữ vai trò quan trọng trong xã hội và nó xác
định điều kiện sống của con người trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều
các lý thuyết về tăng truwonrg kinh tế. Nhìn chung thì khá nhiều các
nhà nghiên cứu đều dùng chỉ số thu nhập bình quân đầu người để đo
lường tăng trưởng kinh tế (xem d'Agostino và cộng sự, 2016). Biến
này nói lên đầy đủ năng lực của một nền kinh tế, nó còn liên quan
đến chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế đó.
2.2 Lý thuyết về mối quan hệ giữa tài chính công và tăng trưởng
kinh tế
2.2.1 Lý thuyết về lựa chọn công
Lý thuyết này giải thích cách nhà nước và các chính trị gia
điều khiển nền kinh tế thông qua các công cụ. Lý thuyết này cung
cấp một cơ chế phân bổ nguồn lực (Stiglitz, 2000). Lý thuyết này đề
cập đến hai trường phái. Một trường phái cho rang nhà nước không
quan tâm đến lý thuyết “đánh đổi” vì vậy mà họ sẵn sàng thu thuế
nhiều lên hoặc chỉ cắt giảm chi tiêu để kiểm soát lạm phát; Một
trường phái khác lại cho rằng chính phủ luôn quan tâm đến lý thuyết
“đánh đổi” do đó họ luôn cố gắng tăng trưởng bằng cách đồng thời
thu thuế nhiều và cùng cắt giảm cả chi tiêu. Bên cạnh đó, lý thuyết
này đang tiếp tục thách thức các nhà nghiên cứu về mối quan hệ giữa
thu thuế và chi tiêu như thế nào cho hiệu quả nhất. Đây là vấn đề vẫn
chưa được giải quyết.
2.2.2. Lý thuyết về chi phí và lợi ích của thuế
Dasgupta and Pearce (1972) lưu ý rằng phân tích chi phí và
lợi ích (CBA) liên quan đến việc được mất của xã hội. Schmid
(2004) cũng cho rằng phân tích chi phí và lợi ích là một bộ công cụ
của nền kinh tế nhằm đánh giá ngân sách, chi tiêu công và các điều
luật. Đứng trên quan điểm phân tích chi phí và lợi ích, chúng ta biết
rằng lạm phát là một thách thức rất lớn cản trở việc tạo ra ngân sách
(McGee, 2008). Để kiểm soát lạm phát tốt hơn, chính phủ phải hiểu
thật rõ về mối quan hệ giữa thu ngân sách và chi tiêu công. Nói tóm
lại, cho đến hôm nay, lý thuyết về chi phí và lợi ích vẫn đang thách
thức các nhà nghiên cứu , những người quan tâm đến việc kiểm tra
6
mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công. Hầu hết các nghiên cứu
trước đây chưa làm rõ được các giả thuyết về mối quan hệ giữa tổng
thu thuế và tổng chi tiêu của các quốc phát triển và đang phát triển.
2.2.3. Lý thuyết về quản trị nhà nước
Quản trị nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức xã hội, thiết lập luật pháp và tăng trưởng kinh tế. Hơn thế, việc
giữ được cân bằng giữa thu nhập và chi tiêu vẫn đang là một thách
thức lớn với quản trị nhà nước. Cho đến bây giờ, hầu hết các lý
thuyết đều chỉ dừng ở việc xác định vai trò của tham nhũng hay quản
trị nhà nước trong một nền kinh tế hoặc với một thành phần nào đó
của thu thuế. Tuy nhiên tổng thu thuế và chi tiêu ngân sách lại là các
yếu tố quan trọng trong việc tạo ra ngân sách của một quốc gia và là
những yếu tố đầu vào của một nền sản xuất. Cả hai yếu tố này đều
đại diện nói lên năng lực của một nhà nước và sự hiện diện của mối
quan hệ giữa chúng với tăng trưởng kinh tế và quản trị nhà nước vẫn
đang cần dduwwojc làm sáng tỏ.”
2.2.4. Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế: hay còn gọi là lý thuyết nội
sinh và ngoại sinh
“Barro and Sala-i-Martin (2004) xác định rằng một tỷ lệ tăng
trưởng nhỏ của nền kinh tế cũng giữ một vai trò quan trọng trong
việc tạo ra tiêu chuẩn sống, do đó cách nhà nước chọn chính sách
đều có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng trong dài hạn. Bên cạnh đó, cả
thu thuế và chi tiêu công là hai yếu tố quan trọng của nền sản xuất.
Chúng nói lên năng lực của một nhà nước. Các tác giả này còn nhận
định rằng lý thuyết tân cổ điển và tăng trưởng ngoại sinh đã không
còn phù hợp để giải thích về tăng trưởng dài hạn. Theo các tác giả
này thì lý thuyết tăng trưởng nội sinh giải thích về mối quan hệ trong
dài hạn của tăng trưởng tốt hơn lý thuyết ngoại sinh và cho đến nay
lý thuyết tăng trưởng nội sinh vẫn đòi hỏi tiếp tục làm rõ mối quan
hệ của tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế.
2.3 Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa tài chính
công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế
2.3.1 Các nghiên cứu thực nghiệm giữa tài chính công và tăng
trưởng kinh tế
Trong những thập kỷ gần đây, nổi lên hai trường phái đánh
giá về mối quan hệ giữa tài chính công và tăng trưởng kinh tế. Một
trường phái vận dụng kiểm định nhân quả và đồng liên kết để thu
7
được những giải thích về mối quan hệ giữa cấu trúc thuế hoặc một
mảng chi tiêu công nào đó với tăng trưởng kinh tế (xem Azam và
cộng sự, 2015.) Trường phái thứ hai, có một nhóm các nhà nghiên
cứu thực hiện mô hình tăng trưởng nội sinh để giải thích mối quan hệ
giữa một thành phần nào đó của thu thuế haowjc một thành phần chi
tiêu công cho một mục đích gì đó với tăng trưởng. Từ thế kỷ 19 trở
lại đây hầu hết cá nhà nghiên cứu đều thấy rõ vai trò của tổng thu
thuế và chi tiêu công trong việc tạo lập ngân sách nhà nước. Mặt
khác một số tác giả cho rằng tài chính công (Thu thuế và chi tiêu) có
tác động dương hay âm lên nền kinh tế phụ thuộc vào từng phân loại
nền kinh tế (xem Azam và cộng sự, 2015). Trong khi đó, lại có
những tác giả cho rằng tài chính công phụ thuộc vào từng loại thuế
hoặc từng loại chi tiêu riêng rẽ chính vì vậy mà nó có tác động lên
nền kinh tế khá phức tạp (xem d'Agostino và cộng sự, 2016;
Stoilova, 2017). Một nhóm các học giả khác lại cho rằng giữa thu
thuế hoặc chi tiêu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế
(xem Azam và cộng sự, 2015). Xuất phát từ các lập luận này, chúng
ta thấy rằng chỉ có tổng thu thuế và chi tiêu công mới nói lên đầy đủ
năng lực của nhà nước. Ngoài ra, để hiểu được năng của nhà nước
cũng như tính hiệu quả của nó trong việc kiểm soát các hoạt động
kinh tế, các nhà nghiên cứu cần thiết phải xem xét và làm rõ hơn về
mối quan hệ giữa tổng thu thuế, chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế
bằng các mô hình. Hiện nay chúng ta thấy các nghiên cứu này chưa
có nhiều thậm chí là gần như không có.
2.3.2. Mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công
Thật không may, mô hình hiệu chỉnh sai số (EC) không chỉ
ra được hướng quan hệ nhân quả giữa thu thuế và chi tiêu. Hầu hết
các nhà nghiên cứu đều điều tra về mối quan hệ dài hạn giữa thu thuế
và chi tiêu công với những lý giải chưa thật rõ ràng và cho thấy sự
phức tạp của mối quan hệ này. Một bộ phận khá lớn các nghiên cứu
trước đó đều tập trung giải thích vai trò của một loại thuế hay một
loại chi tiêu với nền kinh tế mà thôi. Hầu hết các nghiên cứu này chỉ
dừng ở việc sử dụng kiểm định Granger và đồng liên kết để giải thích
về mối quan hệ này. Tóm lại, có thể thấy có 3 trường phái chính bàn
luận về sự tương tác của thu thuế và chi tiêu công. Một là, các tác giả
cho rằng giữa thu thuế và chi tiêu công có mối quan hệ nhân quả hai
chiều (xem Musgrave, 1966 và Chang và Chiang, 2009). Thứ hai,
8
trường phái “chi quyết định thu” cho rằng việc chính phủ chi tiêu là
nguyên nhân gốc rễ của sự thay đổi trong thu thuế (Friedman, 1978).
Cuối cùng là trường phái cho rằng “thu quyết định chi” , theo trường
phái này thì việc thu thuế làm nảy sinh việc nhà nước quản lý chi tiêu
(Hansan và cộng sự, 2012.) Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này
chỉ dừng ở việc xem xét với số liệu của các quốc gia thu nhập cao
hoặc số liệu của một quốc gia cụ thể để đi đến kết luận chứng minh
cho 1 trong số ba giả thuyết nêu trên. Hầu hết các nhà nghiên cứu
này dừng lại ở việc kiểm định với ba biến nghiên cứu chính đó là thu
thuế, chi tiêu và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên chúng ta
đều biết rằng các hoạt động của mọt nền kinh tế có thể tăng hay giảm
không chỉ phụ thuộc vào thu hay chi mà còn phụ thuộc vào các biến
khác kinh tế vĩ mô khác như đầu tư, lạm phát, năng lực thương mại,
chất lượng và số lượng vốn con người. Để lấp vào khoảng trống này,
luận án đã bổ sung các biến kinh tế vĩ mô khác để thực nghiệm và
tiếp tục phân tích tác động của các yếu tố chính và sự tương tác của
nó với các biến kiểm soát.
2.3.3. Ảnh hưởng của quản trị nhà nước lên tài chính công và tăng
trưởng kinh tế
Dzhumashev (2014) lập luận rằng chi tiêu công phụ thuộc
vào hiệu quả của quản trị nhà nước và mức độ tham nhũng. Imam
and Jacobs (2007) đã áp dụng cả hai bộ chỉ số kiểm soát tham nhũng
và cảm nhận về tham nhũng và cho rằng tham nhũng chỉ ảnh hưởng
lên quản lý thuế mà thôi.
Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu trước đây đều điều tra vai
trò của tham nhũng hoặc quản trị nhà nước trong mối quan hệ ngắn
hạn hoặc dài hạn của một thành phần của tài chính công là thu thuế
hoặc chi tiêu công với mô hình hồi quy những phương trình đơn lẻ
với các bộ số liệu thứ cấp của nhiều quốc gia mà thôi. Ngoài ra, quản
trị nhà nước và tài chính công có mối quan hệ phức tạp với tăng
trưởng kinh tế. Để giảm sai chệch do sự khác biệt giữa các quốc gia
chúng tôi áp dụng mô hình hệ phương trình đồng thời (SUR) để xác
định vai trò của quản trị nhà nước trong điều tiết tác động của thu
thuế và chi tiêu công lên tăng trưởng. Zellner (1962) xác nhận rằng
việc đánh giá hệ số của một bộ phương trình hồi quy sẽ giúp giảm sai
chệch do việc sử dụng dữ liệu vĩ mô khi hồi quy đơn.
2.4 Thiết kế khung phân tích và phát triển giả thuyết
9
Giả thuyết (1): Có mối quan hệ dài hạn giữa tài chính công và tăng
trưởng kinh tế.
Giả thuyết (2): Thu thuế và chi tiêu có mối quan hệ nhân quả lẫn
nhau.
Giả thuyết (3): Quản trị nhà nước điều tiết tác động của tài chính
công lên tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào loại nhóm nền kinh tế .
Mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau.
Hình 2.2: Khung phân tích mối quan hệ giữa tài chính công,
quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế. Nguồn tác giả thiết kế.
2.5. Tóm tắt
Luận án này dựa trên lý thuyết chọn lựa công và lợi ích chi
phí của thuế để làm rõ mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công với
tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu phân tích tác động của
tham nhũng trực tiếp lên tăng trưởng kinh tế, còn luận án này xem
xét tác động của quản trị nhà nước thông qua việc điều tiết tài chính
công lên tăng trưởng kinh tế như thế nào.
Quản trị nhà nước:
Kiểm soát tham nhũng
Tăng trưởng kinh tế:
Log GDP bình quân
đầu người
Tài chính công:
Thu thuế
Chi tiêu công
10
CHƯƠNG 3
CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
3.1. Các mô hình nghiên cứu
3.1.1 Mối quan hệ dài hạn giữa tài chính công và tăng trưởng kinh
tế:
Barro (1990) cho rằng chi tiêu được tính bằng thuế suất thuế
thu nhập ông đề xuất công thức:
𝑔 = 𝑇 = 𝜏𝑦 = 𝜏. 𝑘. ∅ (
𝑔
𝑘
), (1)
với g là chi tiêu công, T là thu thuế, 𝜏 là thuế suất thuế thu nhập, và
nó bị ảnh hưởng bới nguồn lực tài chính, 𝑦 đại diện cho kết quả của
nền kinh tế. Romero-Ávila and Strauch (2008) đã phát triển mô hình
này với thuế suất và tổng thuế T, chi tiêu cho sản xuất của chính phủ
là g và chi tiêu khác là G và đưa ra công thức:
𝑔 + 𝐺 = 𝜏. 𝑦 + 𝑇, (2)
Barro và Sala-i-Martin (1992), dựa vào lập luận của Arrow
(1962) và Rome (1986), tuyên bố rằng sản lượng sản xuất theo nhân
công không chỉ phụ thuộc vào vốn con người k, mà còn phụ thuộc
vào sự lan tỏa tri thức hoặc các ý tưởng từ người lao động �̅�, do đó
hàm sản xuất có thể viết lại như bên dưới:
𝑦 = 𝐴. 𝑘1−𝛼(𝑘)̅̅ ̅𝛼 0 < 𝛼 < 1, (3)
Bên cạnh đó, các tác giả này còn căn cứ vào nghiên cứu của
Samuelson (1954) và cho rằng tổng mua sắm của nhà nước G có thể
chịu ảnh hưởng bởi hàm sản xuất, do đó kết quả của nền kinh tế còn
được giải thích bằng phương trình dưới đây:
𝑦 = 𝐴. 𝑘1−𝛼𝐺𝛼 , (4)
Từ (3) và (4) đã thiết kế ra mô hình đánh giá tăng trưởng kinh tế:
𝑦 = 𝐴. 𝑘. (𝐺/𝐾)𝛼, (5)
Barro và Sala-i-Martin (1992) đã chỉ ra rằng tỷ lệ tăng trưởng dài hạn
trong mô hình này là ∅ có thể được diễn đạt thành:
∅ = (1 − 𝜏)(1 − 𝛼)𝐴
1
(1−𝛼)⁄ (𝑔/𝑦)𝛼/(1−𝛼) − 𝜇, (6)
với và 𝜇 là các hằng số phản ánh các tham số trong hàm hữu dụng,
tỷ lệ tăng trưởng sẽ giảm khi thuế suất tăng lên 𝜏, và tăng khi chi tiêu
cho công hiệu quả là g.
11
Mankiw, Romer and Weil (1992) xác định cách thức giải
thích tăng trưởng kinh tế như sau:
𝑦(𝑡) = 𝐾(𝑡)𝛼𝐻(𝑡)𝛽(𝐴(𝑡)𝐿(𝑡))1−𝛼−𝛽 0 < 𝛼 < 1, 𝛼 + 𝛽 < 1, (7)
với 𝑦(𝑡) là kết quả của nền kinh tế tại thời điểm t, K(t) là tài sản vật
chất, H(t) là tài sản nhân lực, và L(t) lực lượng lao động. Do, A(t)L(t)
không bao giờ dừng, họ đã giả định rằng tỷ lệ tăng trưởng của
A(t)L(t) là (n+g), khấu hao tài sản là 𝛿, 𝑠𝑘 là hệ