Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), hàng năm vẫn
còn có khoảng 1,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các quốc gia nghèo chết do tiêu
chảy. Thống kê các bệnh truyền nhiễm của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho
thấy khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những
bệnh có liên quan tới nước sạch, vệ sinh môi trường và các hành vi vệ sinh cá
nhân trong đó hành vi rửa tay.
Rửa tay bằng xà phòng (RTBXP) được coi là cách phòng bệnh có chi phí
thấp nhất nhưng lại mang lại hiệu quả phòng các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm
khuẩn hô hấp cao hơn so với các biện pháp khác trong các chương trình can thiệp
về nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT). Thói quen rửa tay xà phòng
trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện giúp loại bỏ mầm bệnh theo tay bẩn xâm
nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể gây ra những bệnh tật nguy hiểm cho
con người. Các nghiên cứu của Cục Y tế dự phòng (YTDP), Cục Quản lý môi
trường y tế (QLMTYT) cho thấy tỷ lệ người rửa tay trước khi ăn và và sau khi đi
vệ sinh còn thấp trong dân, đặc biệt trong nhóm các dân tộc ít người.
Dân tộc Mông được cho là nhóm cần được quan tâm đặc biệt do đang đối
diện trước những nguy cơ rất lớn về lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng: Tỷ lệ
người Mông mù chữ rất cao (76,8%). Tỷ lệ người dân không được tiếp cận với
các phương tiện truyền thông cao hơn các nhóm dân tộc khác.
Tỉ lệ không rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh của người Mông khá
cao so với các nhóm dân tộc phía Bắc, nguyên nhân chủ yếu vẫn do thói quen
và thiếu nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 28 trang
28 trang | 
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thực trang và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn la, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG 
BÙI HỮU TOÀN 
THỰC TRANG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, 
THỰC HÀNH RỬA TAY 
BẰNG XÀ PHÒNG CỦA CÁC BÀ MẸ NGƯỜI MÔNG ĐANG NUÔI 
CON DƯỚI 5 TUỔI TỈNH SƠN LA VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP 
 CHUYÊN NGÀNH : Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế 
 MÃ SỐ : 62 72 01 64 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC 
HÀ NỘI – 2018 
 CÔNG TRÌNH NÀY ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI 
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG 
Hƣớng dẫn khoa học: 
PGS.TS. Nguyễn Huy Nga 
GS.TS. Phùng Đắc Cam 
Phản biện 1: ................................... 
Phản biện 2: ................................... 
Phản biện 3: .................................. 
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án Tiến sỹ cấp Viện tại 
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương. 
Vào hồi.ngàytháng..năm 2018 
Có thể tìm luận án tại: 
- Thư viện quốc gia 
- Thư viện Viện vệ sinh Dịch tễ Trung ương 
 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC 
GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
1. Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Huy Nga, Phùng Đắc Cam, Nguyễn Thị Liên 
Hƣơng, Lƣơng Mai Anh. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và 
thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông đang nuôi con 
dưới 5 tuổi, tỉnh Sơn la năm 2014. Tạp chí Y học Dự phòng. 2017. tâp 27, 
số 3 tr.128-134. 
2. Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Huy Nga, Phùng Đắc Cam, Nguyễn Thị Liên 
Hƣơng, Lƣơng Mai Anh. Đánh giá kết quả truyền thông-giáo dục sức 
khỏe nâng cao kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng cho các bà 
me người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tại tỉnh Sơn La năm 2016. Tạp 
chí Y học Dự phòng. 2017. tâp 27, số 3 tr.135-140. 
1 
CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
CSHQ : Chỉ số hiệu quả RTBXP : Rửa tay bằng xà phòng 
DTTS : Dân tộc thiểu số THCS : Trung học cơ sở 
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu TTGDSK : Truyền thông- Giáo dục 
sức khỏe 
HQCT : Hiệu quả can thiệp UNICEF : Quỹ Nhi đồng Liên hiệp 
quốc 
NS&VSMT : Nước sạch và vệ sinh 
môi trường 
VSMT : Vệ sinh môi trường 
QLMTYT : Quản lý môi trường y tế WHO : Tổ chức Y tế thế giới 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), hàng năm vẫn 
còn có khoảng 1,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các quốc gia nghèo chết do tiêu 
chảy. Thống kê các bệnh truyền nhiễm của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho 
thấy khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những 
bệnh có liên quan tới nước sạch, vệ sinh môi trường và các hành vi vệ sinh cá 
nhân trong đó hành vi rửa tay. 
Rửa tay bằng xà phòng (RTBXP) được coi là cách phòng bệnh có chi phí 
thấp nhất nhưng lại mang lại hiệu quả phòng các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm 
khuẩn hô hấp cao hơn so với các biện pháp khác trong các chương trình can thiệp 
về nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT). Thói quen rửa tay xà phòng 
trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện giúp loại bỏ mầm bệnh theo tay bẩn xâm 
nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể gây ra những bệnh tật nguy hiểm cho 
con người. Các nghiên cứu của Cục Y tế dự phòng (YTDP), Cục Quản lý môi 
trường y tế (QLMTYT) cho thấy tỷ lệ người rửa tay trước khi ăn và và sau khi đi 
vệ sinh còn thấp trong dân, đặc biệt trong nhóm các dân tộc ít người. 
Dân tộc Mông được cho là nhóm cần được quan tâm đặc biệt do đang đối 
diện trước những nguy cơ rất lớn về lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng: Tỷ lệ 
người Mông mù chữ rất cao (76,8%). Tỷ lệ người dân không được tiếp cận với 
các phương tiện truyền thông cao hơn các nhóm dân tộc khác. 
Tỉ lệ không rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh của người Mông khá 
cao so với các nhóm dân tộc phía Bắc, nguyên nhân chủ yếu vẫn do thói quen 
và thiếu nước. 
2 
Sơn La là một tỉnh miền núi, là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào 
dân tộc Mông. Cùng với các cộng đồng dân tộc khác, dân tộc Mông tại tỉnh 
Sơn La đang phải đối diện với các vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng với điều kiện 
sống khó khăn, thiếu nước sinh hoạt và tỷ lệ bệnh truyền nhiễm ngày càng gia 
tăng trong những năm gần đây và không có xu hướng thuyên giảm hoặc có thì 
chỉ giảm rất ít. Năm 2008 - 2010, Tiêu chảy là một trong 5 bệnh luôn có số ca 
mắc cao nhất. Dân tộc Mông là dân tộc có số dân đứng thứ 3 tại tỉnh Sơn La 
(147.516 người) và tỷ lệ mắc bệnh trên 100.000 dân luôn cao nhất so với các 
dân tộc khác trong tỉnh. Tỷ lệ này luôn cao hơn tỷ lệ chung toàn tỉnh ở tất cả 
các bệnh truyền nhiễm khác không riêng gì tiêu chảy. Với những lý do trên, 
đưa truyền thông - giáo dục sức khỏe (TTGDSK) nhằm cải thiện hiểu biết và 
thực hành rửa tay, rửa tay bằng xà phòng phù hợp cho dân tộc Mông, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến 
thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người Mông đang nuôi 
con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn La và hiệu quả can thiệp” với các mục tiêu: 
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ 
Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Sơn La năm 
2013 - 2014 . 
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp Truyền thông - Giáo dục sức khỏe đối với hành vi 
rửa tay bằng xà phòng của đối tượng nghiên cứu năm 2014 - 2016. 
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VÀ Ý NGHĨA KHOA HỌC THỰC TIỄN 
CỦA LUẬN ÁN 
- Đánh giá hiệu quả can thiệp và cơ sở cho việc nhân rộng : Nghiên cứu 
đã đưa ra kênh TT-GDSK trực tiếp (thăm hộ gia đình và thảo luận nhóm) là 
hoạt động chính dựa vào lực lượng y tế thôn bản sẵn có của chương trình y tế 
nông thôn. Trong điều kiện nguồn kinh phí cho hoạt động RTBXP ở một địa 
phương với nhóm dân đặc biệt (phụ nữ Mông) còn chưa có ở huyện Vân Hồ 
thì đây là một điểm mới và mạnh của luận án. Sau thời gian can thiệp hơn 01 
năm, hiệu quả của các can thiệp đã được đánh giá bằng các số liệu thống kê y 
tế có độ tin cậy, là cơ sở cho việc nhân rộng ra những khu vực khác có điều 
kiện tự nhiên –xã hội tương tự. 
3 
- Xây dựng nội dung hoạt động can thiệp cụ thể, có tính khả thi và bền 
vững: Nghiên cứu đã dựa trên đặc điểm thực tế của cộng đồng người Mông, 
nhu cầu từ cộng đồng và dựa trên việc lồng ghép vào nội dung hoạt động của Y 
tế thôn bản. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các dữ liệu cơ bản làm bằng 
chứng khoa học xây dựng kế hoạch đưa hoạt động RTBXP vào cộng động dân 
tộc ít người. 
- Cung cấp kiến thức RTBXP cho nhóm dân đặc biệt là phụ nữ Mông: 
Nghiên cứu đã xây hoạt động lồng ghép can thiệp hiệu quả phù hợp về nội 
dung và hình thức nhằm nâng cao kiến thức và thực hành RTBXP. Hiệu quả 
của nghiên cứu đã tạo ra môi trường thuận lợi cho nhóm dân đặc biệt một cách 
có kế hoạch và khoa học dựa trên việc tiếp tục duy trì hoạt động can thiệp bằng 
TT-GDSK trực tiếp bền vững ở địa phương 
BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN 
Nội dung chính của Luận án gồm 101 trang và được chia thành các phần: 
Đặt vấn đề (02 trang); Tổng quan tài liệu (25 trang); Phương pháp nghiên cứu 
(19 trang); Kết quả nghiên cứu (33 trang); Bàn luận (18 trang); Kết luận (02 
trang); Khuyến nghị (01 trang). Luận án gồm 43 bảng, 7 hình (bản đồ, biểu đồ, 
sơ đồ) và có 118 tài liệu tham khảo (33 tài liệu tiếng Việt, 85 tài liệu tiếng 
Anh) cùng các phụ lục liên quan. 
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN 
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế Việt 
Nam: Việc không rửa tay bằng xà phòng vào các thời điểm quan trọng như 
trước khi ăn, sau khi tiểu/đại tiện, trước khi cho con ăn và sau khi chăm sóc 
trẻ, đang làm gia tăng các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán, đây là các bệnh rất 
phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong số các bệnh thường gặp ở các vùng nông 
thôn Việt Nam. Ở Việt Nam, hành vi RTBXP còn thấp. Theo kết quả điều tra 
vệ sinh môi trường tại 3 huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Phú Lộc thuộc Bắc 
Trung bộ năm 2005, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời thường xuyên rửa tay xà 
phòng rất thấp (dưới 2%), trong đó rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn là 1,7%, 
sau khi ăn là 1,8%. Kết quả điều tra vệ sinh môi trường (VSMT) tại 3 huyện 
Quản Bạ, Yên Minh, Chiêm Hóa thuộc khu vực miền núi phía Bắc năm 2005 
cho thấy: hầu hết người dân ở các vùng miền núi này đều không có thói quen 
4 
RTBXP trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện. Chỉ có 0,2% đối tượng thường 
xuyên RTBXP trước khi ăn và 0,8% đối tượng RTBXP sau khi đại tiểu tiện. 
Một nghiên cứu khác cho thấy, tỷ lệ bà mẹ có RTBXP/chất tẩy rửa ở một số 
thời điểm quan trọng còn rất thấp: trước khi ăn là 15,3%, sau khi đi tiểu tiện là 
4,7%, sau khi đi đại tiện là 25%, trước khi cho trẻ ăn là 13,2%, sau khi lau/rửa 
đít cho trẻ là 25% và sau khi dọn phân/đổ bô cho trẻ là 29,3%. 
 Truyền thông - Giáo dục sức khỏe là một phương tiện hữu hiệu để thay 
đổi thói quen truyền thống như sử dụng màn và màn tẩm hóa chất xua diệt 
mu i phòng chống bệnh sốt rét, thói quen ăn gỏi cá của người dân trong các 
vùng lưu hành bệnh sán lá gan và thói quen sử dụng bao cao su trong việc 
phòng chống lây nhiễm qua đường tình dục như AIDS... là không thể thay đổi 
trong giai đoạn ngắn. Sự tuyên truyền giáo dục kiên trì và liên tục nhấn mạnh 
vào lợi ích việc nằm màn, của nấu chín cá nước ngọt được coi là biện pháp có 
hiệu quả để phòng, chống các bệnh này. Tỷ lệ không rửa tay xà phòng rất cao ở 
một số dân tộc thiểu số (DTTS) như Ba Na, Ra glai, Bru-Vân Kiều, Gia Rai, 
Mnông, Ê Đê. Nếu lấy tỷ lệ người rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi 
đi đại tiện và sau khi tiểu tiện của dân tộc Thái bằng 1, thì tỷ lệ đó ở nhóm 
Kinh-Hoa cao gấp từ 3-4 lần có ý nghĩa thống kê; một số dân tộc như Mường, 
Dao, Ba Na, Ê Đê, Ra glai đều kém hơn so với dân tộc Thái. 
Các nghiên cứu về sức khỏe, dân tộc Mông tập trung chủ yếu vào các bệnh 
mang tính chất lưu hành địa phương như Bướu cổ, sốt rét. Các bệnh nhiễm trùng 
được Nghiên cứu có đề cập đến DTTS được triển khai trên bình diện rộng nhất 
hiện nay là nghiên cứu Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt 
Nam (SAVY) năm 2003 do Bộ Y tế, WHO, UNICEF tiến hành. 
Các nghiên cứu cũng đã xác định được một rào cản lớn trong hoạt động 
truyền thông tại cộng đồng DTTS như: Hầu hết các DTTS đều có trình độ dân 
trí thấp, tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ cao và khả năng sử dụng tiếng phổ thông 
còn hạn chế, đặc biệt là nhóm nữ. Tỷ lệ đối tượng không tiếp cận được với các 
phương tiện truyền thông đại chúng rất cao. 
Các nghiên cứu về TTGDSK trong phòng chống bệnh truyền nhiễm cũng 
được đề cập trong nghiên cứu của Nguyễn Huy Nga, Trịnh Hữu Vách nhưng 
chỉ đề cập ít đến người Mông. Chưa có nghiên cứu sâu về người Mông và vấn 
đề sức khỏe. 
5 
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu. 
- Phụ nữ người dân tộc Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi. 
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được triển khai tại 3 xã của huyện Mai Sơn là Chiềng Sung, 
Chiềng Chăn, Cò Nòi và 3 xã của huyện Vân Hồ là Vân Hồ, Loóng Luông và 
Chiềng Xuân của tỉnh Sơn La. 
2.1.3.Thời gian nghiên cứu 
Thời gian triển khai nghiên cứu từ tháng 9/2013 đến tháng 12/2016 
2.2. Thiết kế nghiên cứu 
Đề tài có 2 thiết kế riêng biệt phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu: Nghiên 
cứu trước can thiệp (thiết kế mô tả cắt ngang có phân tích) và nghiên cứu can 
thiệp cộng đồng đánh giá trước sau, có đối chứng. 
2.3. Chọn mẫu và cỡ mẫu trong điều tra cắt ngang. 
Trong đó: 
n: là mẫu tối thiếu của điều tra 
P: là tỉ lệ ước tính kiến thức rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người 
dân tộc ít người là 13 % 
Z1- α/2: giá trị tương ứng CI = 95% là 1,96 
d: Độ chính xác tuyệt đối mong muốn, trong nghiên cứu này d = 0,03 
Với các tham số nêu trên, nghiên cứu tối thiểu cần một c mẫu là: n = 
482. Đề phòng mất mẫu số bà mẹ cần cho nghiên cứu là 500. 
Cách chọn mẫu 
Chọn chủ đích 6 xã là Vân Hồ, Loóng Luông, Chiềng Xuân (huyện Vân 
Hồ) và Chiềng Chăn, Chiềng Sung, Cò Nòi (huyện Mai Sơn), các xã chọn có từ 
4 bản Mông trở lên, m i xã chọn điều tra 4 bản Mông tổng số bản chọn điều tra 
là 24 bản. 
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu trong nghiên cứu can thiệp. 
Chọn chủ đích 12 bản Mông đã được chọn trong nghiên cứu nền thuộc 3 xã 
Chiềng Xuân, Loóng Luông và Vân Hồ của huyện Vân Hồ vào nhóm can thiệp . 
6 
2.5. Các khái niệm, thƣớc đo, tiêu chuẩn đánh giá 
- Tỉ lệ hộ có nguồn nước sử dụng và tính sẵn có nguồn nước rửa tay; 
- Tỉ lệ hộ có xà phòng và tính sẵn có; 
- Tỉ lệ % bà mẹ hiểu biết về RTBXP; 
- Tỉ lệ bệnh đường hô hấp hàng năm trên 1000 trẻ. 
2.6. Xây dựng nội dung và hình thức can thiệp. 
2.6.1. Xác định các vấn đề cần can thiệp 
Các hoạt động can thiệp vào cộng đồng đích. Các nội dung của mô hình 
can thiệp được xây dựng nhằm khắc phục các rào cản trong hoạt động truyền 
thông tại cộng đồng DTTS đã được xác định. 
Phương pháp can thiệp: Sử dụng phương pháp và tài liệu truyền thông 
cộng đồng đích. 
Tài liệu truyền thông được sử dụng trong hoạt động can thiệp tại cộng 
đồng là các đĩa VCD, tờ rơi, áp phích được in bằng 2 thứ tiếng 
- Tờ rơi được in bằng 2 thứ tiếng thông qua các buổi truyền thông trực 
tiếp hoặc qua các buổi họp nhóm. 
Nội dung tài liệu truyền thông phù hợp với đặc điểm phong tục tập quán 
địa phương. 
2.6.2. Chương trình can thiệp tại cộng đồng. 
 Các hoạt động truyền thông can thiệp tại cộng đồng dự kiến được tổ chức 
trong vòng 1 năm, từ tháng 9/2014 đến tháng 9/2015. 
2.7. Chỉ số đánh giá kết quả can thiệp 
2.7.1. Chỉ số về các hoạt động can thiệp đã thực hiện 
- Số cán bộ được tập huấn về kỹ năng truyền thông, Số già làng, trưởng 
bản, các bà mẹ Mông tham gia Hội nghị truyền thông. 
- Số lượng tài liệu truyền thông được phân phối. 
2.7.2. Đánh giá hiệu quả về nâng cao kiến thức và thực hành của các bà mẹ 
ngƣời Mông. 
Nghiên cứu cũng đánh giá kết quả của biện pháp can thiệp thông qua so 
sánh tỷ lệ người dân Mông đạt điểm kiến thức và thực hành rửa tay và RTBXP 
trước và sau can thiệp bằng sử dụng chỉ số hiệu quả (CSHQ) và hiệu quả can 
thiệp (HQCT) được tính như sau. 
7 
 |Tỷ lệ sau CT- Tỷ lệ trước CT| 
 Chỉ số hiệu quả (%) = 100 x 
 Tỷ lệ trước CT 
Hiệu quả can thiệp (%) giữa 2 nhóm của m i một giải pháp can thiệp sẽ 
là hiệu của các chỉ số tính toán như sau: 
HQCT = (CSHQ nhómCT - CSHQ nhóm ĐC.)
2.8. Vật liệu và kỹ thuật nghiên cứu 
2.8.1. Công cụ thu thập số liệu 
- Phiếu QXP1: Dùng để thu thập các thông tin liên quan đến rửa tay bằng 
xà phòng của bà mẹ nuôi con dưới 5 tuổi tại hộ gia đình (phụ lục 1) 
- Phiếu QXP2: Dùng thu thập các thông tin về thực hành chăm sóc trẻ 
dưới 5 tuổi của các bà mẹ/người chăm sóc chính (Phụ lục 2) 
- Phiếu QXP3: Dùng thu thập thông tin về tình hình dịch bệnh tại xã 
nghiên cứu 
Định tính: Bao gồm các bản hướng dẫn thảo luận nhóm được chuẩn bị 
sẵn để thảo luận các nhóm ĐTNC (Phiếu QXP4) (phụ lục 3) 
Mẫu gợi ý trong điều tra chuyên sâu (Phiếu QXP5) 
2.9. Quản lý, phân tích, sử dụng số liệu 
2.9.1. Nhập số liệu 
- Số liệu thu thập được nghiên cứu sinh rà soát và được hai người độc 
lập, nhập số liệu hai lần riêng rẽ dựa vào phần mềm Epidata 3.1. 
2.9.2. Kế hoạch làm sạch số liệu 
2.9.3. Phân tích số liệu 
 - Số liệu do nghiên cứu sinh quản lý và phân tích với phần mềm SPSS 16.0; 
 - Các phương pháp phân tích thống kê mô tả và phân tích được sử dụng; 
 - Số liệu của hai lần thực hiên phỏng vấn trước và sau can thiệp được so 
sánh với nhau để đánh giá hiệu quả của can thiệp. 
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu 
Nghiên cứu tuân thủ quy định đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đã 
được Hội đồng đạo đức của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương phê duyệt số 
023/2010/YTCC-HD3 ngày 24/5/2010. 
8 
2.11. Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục 
 Để khắc phục tối đa sai số thông tin, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu 
(ĐTNC) của điều tra viên (ĐTV) sẽ được đặc biệt chú ý. Nghiên cứu sẽ chọn 
những ĐTV là người hiểu rõ phong tục tập quán của người Mông, có kinh 
nghiệm giao tiếp với người Mông. Sử dụng một phiên dịch là người Mông và 
là cán bộ y tế của bản biết thành thạo tiếng Kinh. 
CHƢƠNG 3 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Thực trạng kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà 
mẹ Mông đang nuôi con dƣới 5 tuổi. 
3.1.1. Đặc điểm về dân số học về đối tượng nghiên cứu 
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và trình độ học vấn. 
Đặc điểm 
Vân Hồ 
Nhóm can 
thiệp (%) 
n=254 
Mai Sơn 
Nhóm chứng 
(%) 
n=254 
Cộng 
chung 
n=508 
So 
sánh 
(p) 
Nhóm 
tuổi 
Dưới 26 tuổi 23,0 27,0 25 
>0,05 Từ 26-35 64,3 54,3 59,3 
Trên 35 12,7 18,7 15,7 
Trình 
độ học 
vấn 
Chỉ biết đọc, viết 28,1 32,3 30,3 
>0,05 Tiểu học 48,3 41,4 44,3 
Từ THCS trở lên 23,6 26,3 25,4 
Bảng 3.1 cho biết các phần lớn bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 
tuổi có độ tuổi ≤ 36 (84,3%), trong đó độ tuổi từ 26 đến 35 chiếm gần 2/3 
(59,3%), 15,7% các bà mẹ có độ tuổi trên 35.Có đến 1/3 bà mẹ không biết chữ 
hoặc chỉ mới biết đọc biết viết ở tất cả các xã (30,3%). Các bà mẹ Mông đang 
nuôi con dưới 5 tuổi có trình độ tiểu học là 44,3% và trung học cơ sở (25,4%), 
có rất ít bà mẹ có học vấn trung học (3,4%). 
9 
Bảng 3.2. Phân bố tỉ lệ (%) theo nghề nghiệp và thu nhập của các bà mẹ 
người Mông 
Đặc điểm 
Vân Hồ 
n=254 
Mai Sơn 
 n=254 
Cộng 
chung 
So 
sánh 
(p) 
Thu 
nhập/tháng 
Tỉ lệ hộ Nghèo (%) 16,3 17,0 16,7 >0,05 
Tỉ lệ hộ Cận nghèo (%) 64,3 49,7 57,0 >0,05 
Tỉ lệ hộ trung bình và 
khá (%) 
19,4 33,3 26,3 >0,05 
Nghề 
nghiệp 
Tỉ lệ Nông dân (%) 82,0 84,3 83,1 <0,05 
Tỉ lệ Công chức, viên 
chức (%) 
18,0 13,7 16,9 >0,05 
Bảng 3.2. Cho biết các bà mẹ được điều tra làm nông nghiệp là chủ yếu 
(83,1%). Dựa theo chuẩn nghèo của Việt Nam 2012 có 73,7% số bà mẹ đang 
sống trong các hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Kết quả điều tra quan sát cho 
biết nguồn thu nhập của các gia đình chủ yếu từ sản xuất trồng trọt (Ngô và cây 
ăn quả như Mận, Đào). 
3.1.2. Đặc điểm một số yếu tố liên quan đến rửa tay bằng xà phòng. 
3.1.2.1. Nguồn nước và tính sẵn có tại các hộ bà mẹ Mông. 
Biểu đồ 3.1. Thực trạng về cung cấp nước tại các hộ bà mẹ Mông. 
Kết quả biểu đồ 3.1 cho biết ba nguồn nước được sử dụng tại các bản 
người Mông của 2 huyện là nước giếng khoan, giếng giếng khơi và nước máy. 
10 
Có 89,7% hộ gia đình cho rằng đủ nước dùng, còn 10,3% hộ cho biết thiếu nước 
dùng trong sinh hoạt. 
3.1.2.2. Nguồn xà phòng và tính sẵn có tại các hộ bà mẹ Mông. 
Bảng 3.6. Phân bố các loại xà phòng đang dùng tại các hộ bà mẹ Mông. 
Loại xà phòng 
Vân Hồ 
n=254 
Mai Sơn 
n=254 
Cộng chung 
n=508 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
% 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
% 
Số 
lượng 
Tỉ lệ 
% 
Có xà phòng 221 87,0 200 78,7 421 82,9 
Xà phòng bánh 161 63,5 72 28,2 232 45,7 
Bột giặt 218 86,0 198 78,0 416 82,0 
Khác 106 41,8 103 40,6 209 41,2 
Bảng 3.6 cho biết 82,9% các bà mẹ Mông sống trong các gia đình có xà 
phòng trong nhà, tỉ lệ này không khác nhau giữa 2 huyện. Loại xà phòng họ sử 
dụng chính là bột giặt, ngoài ra có 45% hộ gia đình có xà phòng bánh trong nhà. 
Biểu đồ 3.2. Khoảng cách để xà phòng đến nơi có nguồn nước rửa tay. 
Quan sát nơi để xà phòng cho biết có 78,5% xà phòng được đặt cạnh nơi 
rửa tay hoặc trong vòng 5m (biểu đồ 3.2) 
11 
3.1.3. Thực trạng kiến thức và thực hành của các bà mẹ người Mông liên 
quan tới rửa tay xà phòng 
Có 44,7% các bà mẹ cho biết có nghe về RTBXP, các thông tin này chủ 
yếu từ nguồn truyền thông công cộng như tivi, đài truyền thanh xã (29,3%) và 
từ các nhân viên y tế, chủ yếu là y tế xã (36,2%) 
3.1.3.2. Kiến thức của các bà mẹ Mông về RTBXP. 
Bảng 3.8. Tỷ lệ bà mẹ biết những bệnh gây nên do bàn tay không sạch 
Tên bệnh 
Huyện Vân 
Hồ (n = 254) 
Huyện Mai 
Sơn (n = 254) 
Cộng chung 
(n=508) 
p 
SL % SL % SL % 
Tiêu chảy 144 56,7 174 68,3 318 62,5 p>0,05 
Khác 46 18,0 48 19,0 94 18,5 
Không biết 75 29,7 69 27,3 145 28,5 
Kết quả bảng 3.8 cho biết: Tỷ lệ bà mẹ người Mông không kể tên được 
một bệnh nào do bàn tay bẩn gây nên ở 2 huyện Vân Hồ và Mai Sơn (28,5%). 
Bệnh được biết đến nhiều nhất chủ yếu là tiêu chảy (62,5%). 
Bảng 3.9. iểu biết của bà mẹ người Mông về bàn tay sạch và thời điểm 
 rửa tay 
Kiến thức 
Huyên Vân Hồ 
n=254 
Huyện Mai 
Sơn n=254 
Cộng chung 
n=508 
Số 
lƣợng 
% 
Số