Tóm tắt luận án Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay

Nho giáo ra đời thời Xuân Thu -Chiến Quốc. Đây là thời kỳ rối ren biến động nhấttrong lịch sử Trung Quốc. Trước tình hình đó, các nhà tư tưởng của Nho giáo đã lý giải các vấn đề xã hội và họ muốn tìm ra phương pháp đưa xã hội từ loạn lạc tới thịnh trị. Một trong những phương pháp đó là giáo dục đạo đức cho con người. Nội dung giáo dục đạo đức cho con người của Nho giáo tập trung ở các phạm trù cơ bản như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Đối với người phụ nữ, nội dung giáodục đạo đức của Nho giáo thể hiện rõ thông qua thuyết tam tòng, tứ đức. Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Khi vào Việt Nam, nó được cải biến đi cho phù hợp với tính chất ôn hòa vốn có của người Việt. Trong quá trình tồn tại, giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng Nho giáo làm công cụ để thiết lập ổn định trật tự xã hội và duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Trong các nội dung đạo đức của Nho giáo th ì thuyết tam tòng, tứ đứclà những quy phạm giáo dục đạo đức cơ bản đối với người phụ nữ. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh các giá trị tích cực, thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều mặt tiêu cực, trói buộc người phụ nữ Việt Nam vào lễ giáo phong kiến, kìm hãm các bước tiến của họ. Tuy nhiên, thuyết tam tòng, tứ đứctrên chặng đường dài của lịch sử dân tộc, nó vẫn có giá trị nhất định góp phần làm nên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế -xã hội của nhà nước phong kiến không còn nhưng phần nào tư tưởng của Nho giáo nói chung; thuyết tam tòng, tứ đứcnói riêng vẫn còn tồn tại ít nhiều và có ảnh hưởng đến người phụ nữ Việt Nam trên cả hai bình diện tích cực và hạn chế. Những ảnh hưởng tiêu cực của nó như trọng nam khinh nữ, áp đặt hôn nhân là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình và bất bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Trải qua gần ba mươi năm thực hiện, quá trình Đổi mới của đất nước (1986)đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, trongđó có đổi mới kinh tế là nền tảng. Tuy nhiên, mục đích của Đảng ta trong công cuộc Đổi mới không chỉ đơn giản về kinh tế mà đổi mới toàn diện, 2 trong đó có đổi mới quan niệm về con người và giải phóng con người. Đảng ta luôn xác định, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó, người phụ nữ là lực lượng đông đảo nắm vai trò to lớn trong gia đình và xã hội. Công cuộc Đổi mới đã dẫn đến những thay đổi về tiêu chí đánh giá của xã hội, của gia đình đối với người phụ nữ nhằm đáp ứng nhu cầu mới của thời đại. Người phụ nữ Việt Nam ngày nay phải hướng tới vẻ đẹp toàn diện hơn, trí tuệ hơn, giỏi việc nước đảm việc nhà, tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Những quy tắc, chuẩn mực của thuyết tam tòng, tứ đức được sử dụng một cách hợp lý sẽ trở thành nhântố quan trọng nâng cao vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại. Điều đó cho thấy việc cần thiết phải nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đứctrong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay để đưa ra những giải pháp nhằm phát huy giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: "Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận án Tiến sĩ của mình

pdf29 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3728 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ VÂN thuyÕt tam tßng, tø ®øc trong nho gi¸o vµ ¶nh h­ëng cña nã ®èi víi ng­êi phô n÷ viÖt nam hiÖn nay Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS Mã số : 62 22 80 05 tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Hµ Néi - 2014 C«ng tr×nh ®­îc hoµn thµnh t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: GS. TS NGUYỄN HÙNG HẬU Ph¶n biÖn 1: Ph¶n biÖn 2: Ph¶n biÖn 3: LuËn ¸n sÏ ®­îc b¶o vÖ tr­íc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc viÖn häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh. Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014 Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th­ viÖn Quèc gia vµ Th­ viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh 1MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nho giáo ra đời thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Đây là thời kỳ rối ren biến động nhất trong lịch sử Trung Quốc. Trước tình hình đó, các nhà tư tưởng của Nho giáo đã lý giải các vấn đề xã hội và họ muốn tìm ra phương pháp đưa xã hội từ loạn lạc tới thịnh trị. Một trong những phương pháp đó là giáo dục đạo đức cho con người. Nội dung giáo dục đạo đức cho con người của Nho giáo tập trung ở các phạm trù cơ bản như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Đối với người phụ nữ, nội dung giáo dục đạo đức của Nho giáo thể hiện rõ thông qua thuyết tam tòng, tứ đức. Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Khi vào Việt Nam, nó được cải biến đi cho phù hợp với tính chất ôn hòa vốn có của người Việt. Trong quá trình tồn tại, giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng Nho giáo làm công cụ để thiết lập ổn định trật tự xã hội và duy trì sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Trong các nội dung đạo đức của Nho giáo thì thuyết tam tòng, tứ đức là những quy phạm giáo dục đạo đức cơ bản đối với người phụ nữ. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh các giá trị tích cực, thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều mặt tiêu cực, trói buộc người phụ nữ Việt Nam vào lễ giáo phong kiến, kìm hãm các bước tiến của họ. Tuy nhiên, thuyết tam tòng, tứ đức trên chặng đường dài của lịch sử dân tộc, nó vẫn có giá trị nhất định góp phần làm nên vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước phong kiến không còn nhưng phần nào tư tưởng của Nho giáo nói chung; thuyết tam tòng, tứ đức nói riêng vẫn còn tồn tại ít nhiều và có ảnh hưởng đến người phụ nữ Việt Nam trên cả hai bình diện tích cực và hạn chế. Những ảnh hưởng tiêu cực của nó như trọng nam khinh nữ, áp đặt hôn nhân… là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực gia đình và bất bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Trải qua gần ba mươi năm thực hiện, quá trình Đổi mới của đất nước (1986) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực, trong đó có đổi mới kinh tế là nền tảng. Tuy nhiên, mục đích của Đảng ta trong công cuộc Đổi mới không chỉ đơn giản về kinh tế mà đổi mới toàn diện, 2trong đó có đổi mới quan niệm về con người và giải phóng con người. Đảng ta luôn xác định, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó, người phụ nữ là lực lượng đông đảo nắm vai trò to lớn trong gia đình và xã hội. Công cuộc Đổi mới đã dẫn đến những thay đổi về tiêu chí đánh giá của xã hội, của gia đình đối với người phụ nữ nhằm đáp ứng nhu cầu mới của thời đại. Người phụ nữ Việt Nam ngày nay phải hướng tới vẻ đẹp toàn diện hơn, trí tuệ hơn, giỏi việc nước đảm việc nhà, tích cực tham gia các hoạt động xã hội... Những quy tắc, chuẩn mực của thuyết tam tòng, tứ đức được sử dụng một cách hợp lý sẽ trở thành nhân tố quan trọng nâng cao vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại. Điều đó cho thấy việc cần thiết phải nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay để đưa ra những giải pháp nhằm phát huy giá trị tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: "Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận án Tiến sĩ của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ nội dung chủ yếu của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam, phân tích ảnh hưởng của nó; luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc và Nho giáoViệt Nam. - Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay. - Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 33. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản trong thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề phụ nữ - Luận án dựa trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, sử dụng đúng đắn, phù hợp với các phương pháp phân tích và kết hợp, lôgic và lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh, tổng kết thực tiễn... 5. Những đóng góp về khoa học của luận án - Luận án khái quát những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam. - Luận án phân tích rõ hơn những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. - Từ những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và những mâu thuẫn đang tồn tại trong vấn đề thực trạng xã hội, luận án đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án lý giải rõ hơn về thuyết tam tòng, tứ đức của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong việc hoạch định, thực thi chính sách trong công tác phụ nữ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. 4- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam, vị trí, vai trò của người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo và thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Nghiên cứu về đạo đức Nho giáo nói chung và thuyết tam tòng, tứ đức nói riêng có các công trình tiêu biểu: Đào Duy Anh (1938), Sách Khổng giáo phê bình tiểu luận, Nxb Quan hải Tùng thư, Huế; Trần Trọng Kim (2006), Sách Nho giáo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Phan Bội Châu (1998), Sách Khổng học đăng, Nxb Văn hóa Thông Tin, Hà Nội; Quang Đạm (1994), Sách Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn học, Hà Nội; Trần Văn Giàu (1985), Sách Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Quang Đạm (1994), Sách Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn học, Hà Nội; Phan Đại Doãn (1998), Sách Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (1998), Sách Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Hùng Hậu (2010), Sách Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vũ Ngọc Khánh (1998), Sách Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc; Vũ Khiêu (1991), Sách Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Vũ Khiêu (1995), Sách Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Nguyễn Thị Nga - Hồ Trọng Hoài (2003), Sách Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 1.2. Những công trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay Thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều ảnh hưởng tiêu cực và tích cực đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, vấn đề này được nhiều công trình nghiên cứu. Tiêu biểu là các công trình của các tác giả Phan Mạnh Toàn (2011) Ảnh hưởng của Nhân- Lễ trong Nho giáo đối với đời sống đạo đức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ triết học; Phan Huy Lê 5- Vũ Minh Giang (chủ biên) (1994), Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Tập 2, Chương trình KHCN cấp nhà nước KX 07, đề tài KX 07-02, Hà Nội. Trần Nguyên Việt (2002), bài viết "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (5); Nguyễn Tài Thư (2002), bài viết "Nho giáo và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (5); Lê Thị Quý (1993), bài viết "Nho giáo và văn hóa gia đình hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, (4-112); Lê Văn Quán (1997), bài viết "Lễ giáo Nho gia phong kiến kìm hãm bước tiến lên của phụ nữ Việt Nam hiện nay", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (01-151); Nguyễn Thị Kim Loan (2003), bài viết "Nho giáo và văn hóa ứng xử của người Việt bình dân trong quan hệ hôn nhân và gia đình", Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (04-226). 1.3. Những công trình nghiên cứu quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay Tuyên truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Đề án 343, Bộ giáo dục và đào tạo; Công, dung, ngôn, hạnh thời nay của Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị Vân Hương; Ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường - Đại học Sư phạm của Hoàng Thị Thuận; Dương Thị Minh (2004), Sách Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Minh (1997), Sách Phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội, Nxb Lao động; Lê Thi (2004), Sách Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát triển bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Lê Thi (2006). Các công trình đã làm rõ những phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo; khái niệm và nội dung chủ yếu của thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch sử phát triển của Nho giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam; khái quát một số đặc điểm đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam và nêu lên những tàn dư của đạo đức Nho giáo cần phải quét sạch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta; chỉ ra những nguyên nhân tồn tại của các tàn dư đạo đức phong kiến và một số phương hướng khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, phát huy những ảnh hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay. 6Tuy nhiên, chưa có công trình nào khái quát, phân tích thuyết tam tòng, tứ đức và những ảnh hưởng tích cực cũng như những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam mang tính độc lập, hệ thống, chuyên sâu. Chưa có công trình nào đưa ra quan điểm và giải pháp phát huy phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay một cách đồng bộ, hiệu quả. Đây là một khoảng trống đòi hỏi tác giả phải tiếp tục đi sâu, làm rõ. Chương 2 THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO 2.1. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc 2.1.1. Nguồn gốc của Nho giáo Trung Quốc 2.1.1.1. Cơ sở kinh tế - xã hội cho việc hình thành Nho giáo Trung Quốc Nho giáo được ra đời vào thời Xuân Thu- Chiến Quốc ở Trung Quốc. Đây được coi là thời kỳ có nhiều biến động nhất, rối ren nhất. Thời kỳ này diễn ra nhiều mâu thuẫn xã hội làm cho các trật tự xã hội bị đảo lộn nên yêu cầu đặt ra là cần xây dựng một mô hình xã hội mới để xã hội có trật tự, kỷ cương. Thời kỳ này cũng đánh dấu sự hình thành và phát triển nhiều trường phái triết học trong đó có Nho giáo. Nho giáo ra đời nhằm mục đích thiết lập một mô hình quản lý xã hội tập trung phong kiến. 2.1.1.2. Tiền đề chính trị, văn hóa, tư tưởng cho việc hình thành Nho giáo Trung Quốc Nho giáo được ra đời trên cơ sở kế thừa những tiền đề văn hóa, tư tưởng đã được phát triển trước đó ở Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Thứ nhất, tiền đề văn hóa. Ở thời kỳ này, Trung Quốc đã có sự phát triển rực rỡ về các phát minh trong các lĩnh vực: thiên văn, toán học, y học, tư tưởng chính trị. Thứ hai, tiền đề tư tưởng đó là những tư tưởng về tôn giáo, tư tưởng đạo đức của nhà Chu. Nhà Chu đề cao tư tưởng “kính Trời”, “nhận dân”, “hưởng dân”, “đức’, “hiếu”. Những tư tưởng này đã có ảnh hưởng đến các nhà Nho, là nền tảng để họ xây dựng những phạm trù cơ bản trong học thuyết của mình như: Tam cương- Ngũ thường, Chính danh, Tam tòng- Tứ đức… 2.1.1.3. Khổng Tử - người sáng lập học thuyết Nho giáo Khổng Tử (551 - 479 Tr.CN) là người sáng lập ra Nho giáo. Ông thường đi chu du thiên hạ để rao giảng đạo trị nước. Trước tình hình kinh 7tế- xã hội nhà Chu bị đảo lộn, ông đã sáng lập ra học thuyết Nho giáo nhằm mục đưa con người vào đúng Chính danh của họ. Nhờ vậy, xã hội mới trật tự kỷ cương, thái bình thịnh trị. 2.1.2. Vị trí của thuyết tam tòng, tứ đức trong đạo đức Nho giáo Trung Quốc và quan hệ giữa chúng 2.1.2.1. Vị trí của thuyết tam tòng, tứ đức trong đạo đức Nho giáo Trung Quốc Thứ nhất, Nho giáo tập trung xây dựng mẫu người quân tử để cai trị được xã hội nên không bàn nhiều đến phụ nữ. Tuy nhiên, những tư tưởng tam tòng, tứ đức vẫn được các nhà Nho đề cập đến trong khi lồng ghép nó với các phạm trù khác như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Thứ hai, Nho giáo quan niệm gia đình là xã hội thu nhỏ, còn xã hội là gia đình mở rộng nên thuyết tam tòng, tứ đức trong hệ thống đạo đức Nho giáo ra đời cũng nhằm phục vụ mục đích ổn định trật tự xã hội. Thứ ba, thuyết tam tòng, tứ đức có mục đích sâu xa là bảo vệ địa vị của giai cấp cầm quyền. Thứ tư, thuyết tam tòng, tứ đức là chuẩn mực quan trọng nhất, là yêu cầu cơ bản nhất về đạo đức Nho giáo đối với người phụ nữ. Giữa chúng có mối liên hệ ràng buộc không thể tách rời giúp người phụ nữ có vẻ đẹp hoàn thiện theo tiêu chuẩn của Nho giáo. 2.1.2.2. Mối quan hệ giữa thuyết tam tòng và thuyết tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc Điểm chung giữa thuyết tam tòng, tứ đức: chúng đều là những quy tắc, lễ nghĩa, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ. Điểm khác biệt giữa thuyết tam tòng, tứ đức thể hiện ở phạm vi, đối tượng đề cập. Tam tòng (三從) có nguồn gốc từ Nghi lễ, Tang phục, Tử Hạ truyện có ghi: 1. Tại gia tòng phụ (在家從父): người con gái khi còn ở nhà phải nghe theo cha; 2. Xuất giá tòng phu (出嫁從夫): lúc lấy chồng phải nghe theo chồng; Phu tử tòng tử (夫死從子): nếu chồng qua đời phải theo con trai. Tứ đức gồm phụ công (婦功), phụ dung (婦容), phụ ngôn (婦言) và phụ hạnh (婦行): 81. Công: nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các nghề với phụ nữ ngày xưa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi hoạ. 2. Dung: dáng người đàn bà phải hòa nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân 3. Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng 4. Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên nhường dưới, chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt. 2.1.4. Thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch sử phát triển của Nho giáo Trung Quốc 2.1.4.1. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo nguyên thuỷ Khổng Tử và Mạnh Tử xây dựng thuyết tam tòng, tứ đức để giáo huấn người phụ nữ. Trong tứ đức, Khổng Tử đặc biệt đề cao đức “hạnh” của người phụ nữ. Hạnh là nền tảng, là gốc của Công- Dung- Ngôn. Trong đức Hạnh đối với cha mẹ, Khổng Tử đặc biệt chú trọng sự hiếu thảo. Mạnh Tử cũng yêu cầu người phụ nữ phải “tòng” hoàn toàn vào chồng, nhà chồng. 2.1.4.2. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Hán Nho Cuối thời Chiến Quốc, nhà Tần sử dụng “pháp trị” để thống nhất và cai trị đất nước. Đổng Trọng Thư là người có công khôi phục lại Nho giáo sau cuộc “đốt sách chôn Nho” của Tần Thủy Hoàng. Về vai trò của người phụ nữ, Đổng Trọng Thư đã đưa ra tư tưởng "phu xướng phụ tòng" - chồng nói vợ phải nghe theo, người phụ nữ phải phục tùng người chồng dù đúng hay sai. Hán Nho trở thành công cụ thống trị tinh thần đắc lực của nhà nước trung ương tập quyền chuyên chế. Thuyết tam tòng, tứ đức vì thế mà cũng mang tính chất khắc nghiệt hơn đối với người phụ nữ, là cơ sở đẩy tư tưởng gia trưởng, phu quyền, phụ quyền lên cao. 2.1.4.3. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Tống Nho Về người phụ nữ, Tống Nho đã tiếp thêm sức mạnh cho tư tưởng "trọng nam khinh nữ", "tam tòng". Nghiệt ngã hơn, Tống Nho có cái nhìn cực đoan về trinh tiết của người phụ nữ. Trình Di thời kỳ này đã nói: "chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn". Đây là bằng chứng điển hình nhất về sự khắt khe, nghiệt ngã của Nho giáo đối với phụ nữ. 2.2. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam 92.2.1. Khái lược sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam Nho giáo du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Đặc biệt, ở mỗi một thời kỳ lịch sử khác nhau, mỗi triều đại phong kiến khác nhau, thì vị trí và vai trò của Nho giáo có sự khác nhau. Trong một nghìn năm phong kiến, Nho giáo nói chung, thuyết tam tòng, tứ đức nói riêng đã gây ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống con người Việt Nam. Nho giáo góp phần xây dựng truyền thống tư tưởng văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Điều đáng chú ý là khi tồn tại ở Việt Nam, Nho giáo không hoàn toàn rập khuôn như Nho giáo Trung Quốc mà nó đã được cải biến để phù hợp với truyền thống người Việt. 2.2.2. Những nhân tố làm biến đổi nội dung thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam Một là, người Việt Nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ từ ngàn xưa. Hai là, thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước cũng như truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam quy định sự tiếp nhận và làm biến đổi thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo. Ba là, trong quá trình Nho giáo truyền bá vào Việt Nam, bản thân các nhà Nho cũng tiếp thu và vận dụng nội dung của Nho giáo phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Bốn là, song song với việc Nho giáo được du nhập thì Phật giáo và Đạo giáo cũng được truyền bá vào nước ta. Năm là, gia đình truyền thống Việt Nam khác gia đình lớn phụ quyền gia trưởng ở Trung Quốc. Những nhân tố cơ bản trên đã làm biến đổi thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam. Đó cũng là cơ sở quy định về nội dung, đặc điểm của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam. 2.2.3. Khái quát nội dung, đặc điểm của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam 2.3.3.1. Nội dung thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam Nội dung tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam được thể hiện nhiều trong các bài Gia huấn ca, trong các bộ luật thời phong kiến. Nhìn chung, nội dung tam tòng, tứ đức của Nho giáo Việt Nam không khác nhiều so với Nho giáo Trung Quốc. 2.3.3.2. Một số đặc điểm cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam 10 Một là, thuyết tam tòng, tứ đức được pháp luật phong kiến Việt Nam thừa nhận và đề cao Ở nước ta thời phong kiến, bô luật nào cũng bàn về phụ nữ, tiêu biểu là Luật Hồng Đức, Luật Gia Long. Nhìn chung, mặc dù có tiến bộ hơn so với Trung Qu
Luận văn liên quan