Kiểm toán nội bộ (KTNB) đã được tổ chức ở nhiều doanh nghiệp
Việt Nam có qui mô lớn, trong đó có các công ty tài chính (CTTC) Việt
Nam. Bước đầu KTNB đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động quản
lý cũng như hoạt động kiểm soát nói chung tại các CTTC. Tuy nhiên,
KTNB vẫn chưa được triển khai đầy đủ và vận hành hữu hiệu tại các công
ty. Các nội dung kiểm toán cũng như tổ chức bộ máy và hoạt động kiểm
toán chưa đầy đủ, do vậy chưa đáp ứng đầy đủ vai trò trong quản trị doanh
nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: “Tổ chức
kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam”
12 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 438 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Kiểm toán nội bộ (KTNB) đã được tổ chức ở nhiều doanh nghiệp
Việt Nam có qui mô lớn, trong đó có các công ty tài chính (CTTC) Việt
Nam. Bước đầu KTNB đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động quản
lý cũng như hoạt động kiểm soát nói chung tại các CTTC. Tuy nhiên,
KTNB vẫn chưa được triển khai đầy đủ và vận hành hữu hiệu tại các công
ty. Các nội dung kiểm toán cũng như tổ chức bộ máy và hoạt động kiểm
toán chưa đầy đủ, do vậy chưa đáp ứng đầy đủ vai trò trong quản trị doanh
nghiệp.
Xuất phát từ thực tế trên, Tác giả đã lựa chọn Đề tài: “Tổ chức
kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam”.
2. Tổng quan các nghiên cứu về kiểm toán nội bộ
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có khá nhiều nghiên cứu
của nhiều tác giả trên các khía cạnh và lĩnh vực khác nhau về KTNB.
Modern Internal Auditing của Victor Brink (1942): thay đổi quan
điểm phổ biến trước đó rằng KTNB chủ yếu thực hiện kiểm tra kế toán
và hỗ trợ cho kiểm toán viên (KTV) bên ngoài, thay vào đó cho rằng
một vai trò quan trọng hơn rất nhiều của KTNB là hỗ trợ cho các nhà
quản lý của đơn vị.
Brink’s Modern Internal Auditing, 6 ed. của Robert Moller
(2005): hướng dẫn cho KTNB thực hiện đánh giá đối với kiểm soát nội
bộ theo yêu cầu của Điều 404 Đạo luật Sabanes - Oxley; nhấn mạnh ý
nghĩa của việc hiểu và đánh giá rủi ro đối với KTNB, mối quan hệ giữa
KTNB và ủy ban kiểm toán (UBKT).
Brink’s Modern Internal Auditing, 7 ed. của Robert Moeller
(2009): tổng kết các vấn đề quan trọng nhất mà KTVNB chuyên nghiệp
cần biết để có thể thực hiện thành công các cuộc kiểm toán, cũng như
những vấn đề quan trọng nhất mà các công ty cần biết để có thể thành
lập một bộ phận KTNB hoạt động có hiệu quả.
Risk-based Auditing của Phil Griffiths (2005): nhấn mạnh vai trò,
điểm khác biệt giữa kiểm toán tuân thủ và kiểm toán trên cơ sở định
hướng rủi ro là ở chỗ kiểm toán trên cơ sở định hướng rủi ro xuất phát
từ nghiên cứu mục tiêu và đánh giá rủi ro ảnh hưởng tới mục tiêu để xác
định các thủ tục kiểm toán.
2
Khảo sát về KTNB của PWC (2007): KTNB cần phải thực hiện
kiểm soát rủi ro liên tục và đánh giá rủi ro đối với toàn bộ tổ chức
(enterprise-wide risk management) một cách thường xuyên.
Ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về KTNB
hoặc về kiểm soát trong một số lĩnh vực.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Quynh và cộng sự (1998)
về “Xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát trong quản lý vĩ mô và vi
mô ở Việt Nam” đã phân tích đánh giá thực trạng hoạt động kiểm tra,
kiểm soát nói chung, trong đó đề cập đến KTNB như là một yếu tố cấu
thành HTKSNB.
Tác giả Lê Thu Hằng (2007) với đề tài: “Nghiên cứu xây dựng
nội dung kiểm toán nội bộ doanh nghiệp vận tải ô tô”. Trong nghiên
cứu của mình, tác giả nhấn mạnh một nội dung quan trọng của KTNB là
thực hiện kiểm toán hoạt động.
Tác giả Phan Trung Kiên (2008) với đề tài “Hoàn thiện tổ chức
kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”. Trong
nghiên cứu này, tác giả đưa ra khái niệm “kiểm toán liên kết”, là sự kết
hợp giữa các loại hình kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ, tiêu
chí đánh giá trong kiểm toán hoạt động tại doanh nghiệp xây dựng.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Thúy (2010) với đề tài: “Hoàn thiện tổ
chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam”: đưa ra các
giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại các tập đoàn kinh tế theo hướng
liên kết các hình thức kiểm toán theo hướng chú trọng kiểm toán hoạt
động, thay đổi cách thức tiếp cận kiểm toán, hoàn thiện mô hình tổ chức
KTNB tại các tập đoàn kinh tế.
Trong các công trình trên, chưa có đề tài nghiên cứu nào được
thực hiện đối với hoạt động KTNB tại các CTTC Việt Nam. Các CTTC
là một loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tín
dụng, có các đặc thù riêng khác với các doanh nghiệp sản xuất, thương
mại. Hoạt động của các CTTC cũng chứa đựng nhiều loại rủi ro như rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro đầu tư, cần được kiểm soát một cách
chặt chẽ.
Vì những nguyên nhân trên, Tác giả đã lựa chọn Đề tài nghiên
cứu “Tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam”.
Đây là nghiên cứu đầu tiên về hoạt động KTNB tại các CTTC Việt
Nam. Nội dung của Đề tài không những tập trung đánh giá thực trạng
KTNB tại các CTTC Việt Nam với những đặc thù riêng trong hoạt
3
động, mà còn nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm tổ chức KTNB của các
TCTD trên thế giới và nghiên cứu khả năng vận dụng vào các CTTC
Việt Nam để đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt
động KTNB tại các doanh nghiệp này. Hướng nghiên cứu tập trung vào
phương pháp tiếp cận và các loại hình KTNB tại các CTTC.
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của Luận án
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích cơ
sở lý luận về KTNB nói chung và KTNB tại các CTTC nói riêng, Luận
án phân tích đánh giá thực trạng tổ chức KTNB và các nguyên nhân cơ
bản hạn chế hiệu quả hoạt động của KTNB tại các CTTC Việt Nam, từ
đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác KTNB tại các CTTC, nhằm
nâng cao vai trò của KTNB với tư cách là một công cụ quan trọng trong
việc đảm bảo an toàn, kiểm soát hoạt động của các CTTC.
Ý nghĩa nghiên cứu
Thứ nhất, về lý luận: Luận án phát triển lý luận về KTNB trong tổ
chức KTNB tại các CTTC, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của phương pháp
tiếp cận kiểm toán trên cơ sở định hướng rủi ro tại các CTTC Việt Nam.
Thứ hai, về thực tiễn: Luận án mô tả và phân tích thực trạng tổ
chức KTNB tại các CTTC Việt Nam, đề xuất được các giải pháp khả thi
trong tổ chức KTNB tại các CTTC.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là tổ chức KTNB tại các
CTTC Việt Nam, trong đó tổ chức KTNB được hiểu trên hai khía cạnh
là tổ chức hoạt động KTNB và tổ chức bộ máy KTNB.
Phạm vi nghiên cứu của Luận án là toàn bộ các CTTC Việt Nam
đã được thành lập và hoạt động tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2009,
dựa vào thống kê trên trang web của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận án
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính
và nghiên cứu định lượng. Các phương pháp kỹ thuật chủ yếu được sử
dụng trong Luận án bao gồm: phương pháp điều tra, khảo sát, phương
pháp thống kê và các phương pháp bổ trợ khác.
Tác giả đã gửi phiếu khảo sát tới tất cả 12 CTTC Việt Nam. Số
phiếu thu được là 11 trên 12 phiếu. Tác giả cũng thực hiện phỏng vấn
và khảo sát trực tiếp tổ chức KTNB tại một số CTTC.
4
Các dữ liệu được sử dụng trong Luận án bao gồm dữ liệu sơ cấp
và thứ cấp. Các dữ liệu sơ cấp được thu thập chủ yếu thông qua phiếu
điều tra và phỏng vấn trực tiếp đối với bộ phận KTNB của các CTTC.
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các báo cáo của các CTTC Việt Nam
gửi Thanh tra NHNN, các tài liệu, báo cáo tổng kết hoạt động của các
CTTC Việt Nam. Ngoài ra, Luận án cũng sử dụng số liệu điều tra của
một số công ty kiểm toán lớn trên thế giới.
6. Những đóng góp của Luận án
Luận án có những đóng góp về lý luận và thực tiễn sau:
Thứ nhất, về lý luận: Luận án hệ thống hoá lý luận chung về
KTNB trong các CTTC, xuất phát từ đặc thù của các CTTC là một loại
hình TCTD để làm rõ nội dung và phương pháp tiếp cận kiểm toán phù
hợp với các công ty. Luận án cũng nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức
KTNB tại các TCTD trên thế giới.
Thứ hai, về thực tiễn: Luận án đã xem xét đặc điểm chung của
các CTTC Việt Nam ảnh hưởng đến tổ chức KTNB, đánh giá thực trạng
tổ chức KTNB tại các CTTC Việt Nam, từ đó phân tích các kết quả đạt
được và các hạn chế, làm rõ nguyên nhân của các hạn chế.
Trên cơ sở các nghiên cứu về thực trạng tổ chức KTNB, Luận án
đã đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện tổ chức KTNB
trên cả hai mặt là tổ chức bộ máy và tổ chức hoạt động KTNB.
7. Bố cục của Luận án
Chương 1: Cơ sở lý luận của tổ chức kiểm toán nội bộ tại các
công ty tài chính
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty
tài chính Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm
toán nội bộ tại các công ty tài chính Việt Nam
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC KIỂM TOÁN
NỘI BỘ TẠI CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái quát về các công ty tài chính
Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tín dụng phi ngân
hàng có chức năng sử dụng các nguồn vốn tự có và vốn huy động để
cho vay, đầu tư và cung cấp một số dịch vụ tài chính khác.
5
Đặc trưng cơ bản của CTTC ảnh hưởng đến tổ chức KTNB:
Thứ nhất, các CTTC thường quản lý và giám sát một khối lượng
tài sản lớn trong đó chủ yếu là những tài sản tài chính rất nhậy cảm với
các vấn đề về gian lận, vượt thẩm quyền.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của các CTTC có những loại rủi
ro đặc thù, ví dụ rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, Vì
thế trong xu hướng hiện nay vấn đề quản trị rủi ro đang có một vai trò
ngày càng quan trọng trong kinh doanh của CTTC.
Thứ ba, CTTC là loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ, cung cấp các dịch vụ tín dụng – tài chính cho khách hàng.
Do đó, sản phẩm của CTTC mang tính vô hình. Sản phẩm của CTTC
thường được thực hiện theo một qui trình chứ không phải là các vật thể
có thể quan sát, nắm giữ được.
Thứ tư, các CTTC liên tục phát triển những sản phẩm mới,
những công cụ tài chính mới do sức ép của cạnh tranh, tự do hoá tài
chính, sự phát triển của khoa học công nghệ.
Thứ tư, về mặt tổ chức, các CTTC thường có tổ chức tương đối
gọn nhẹ. CTTC thường được tổ chức quản lý và vận hành tập trung tại
trụ sở chính.
Thứ năm, hoạt động của các TCTD nói chung cũng như các
CTTC nói riêng là một trong những lĩnh vực bị quản lý chặt chẽ nhất
trong nền kinh tế bởi các cơ quan quản lý nhà nước.
1.1.2. Khái niệm, bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của kiểm toán
nội bộ tại các công ty tài chính
KTNB là một trong ba loại hình kiểm toán khi phân loại theo chủ
thể thực hiện.
Nhận thức và thực hành về KTNB đã có sự phát triển nhanh chóng,
trong đó khái niệm KTNB do IIA đưa ra năm 1999 đã thể hiện đầy đủ nội
dung, ý nghĩa của KTNB trong giai đoạn hiện nay: “KTNB là hoạt động
đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập và khách quan, được thiết kế để gia
tăng giá trị và cải tiến hoạt động của một tổ chức. KTNB hỗ trợ cho tổ
chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua phương pháp tiếp cận có
hệ thống và có nguyên tắc nhằm đánh giá và tăng cường tính hiệu quả của
qui trình quản lý rủi ro, kiểm soát và quản trị đơn vị”.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của kiểm toán nội bộ: độc lập,
tuân thủ pháp luật và các quy định, trung thực, khách quan, chuyên
nghiệp, đảm bảo tính hiệu quả.
6
1.1.3. Loại hình kiểm toán của kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính
Kiểm toán tài chính: đưa ra đảm bảo về tính trung thực, hợp lý và
hợp pháp của các thông tin trên các báo cáo tài chính (BCTC) và báo
cáo kế toán quản trị. Kiểm toán hoạt động: quá trình đánh giá về tính
hiệu lực, tính hiệu quả và hiệu năng của các hoạt động trong đơn vị
nhằm đưa ra biện pháp để cải thiện những hoạt động được kiểm toán.
Kiểm toán liên kết: là sự sáp nhập hai loại kiểm toán trên.
Trong một cách phân loại khác, KTNB được phân chia theo lĩnh
vực, gồm có: kiểm toán thông tin, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hiệu
quả và hiệu năng.
1.2. TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.2.1. Nội dung tổ chức kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính
Tổ chức KTNB là một hệ thống có chức năng đảm bảo và tư vấn
về các thông tin và qui trình kiểm soát, quản trị và quản lý rủi ro do các
KTV có trình độ tương xứng thực hiện dựa trên cơ sở pháp lý có hiệu
lực tại các CTTC. Tổ chức KTNB trong các CTTC có thể phân chia
thành hai nội dung cơ bản là tổ chức hoạt động KTNB và tổ chức bộ
máy KTNB.
Bộ phận KTNB nên trực thuộc cấp lãnh đạo cấp cao nhất trong
công ty để đảm bảo sự độc lập của KTNB, sự bao quát của phạm vi
kiểm toán, bảo đảm báo cáo kiểm toán được xem xét đầy đủ và có
những biện pháp thích đáng trên cơ sở các kiến nghị của KTV. Mô hình
thường gặp là bộ phận KTNB được tổ chức trực thuộc UBKT - một
trong các ủy ban của HĐQT. Theo mô hình này UBKT sẽ quản lí trực
tiếp bộ phận KTNB và do đó đảm bảo tính độc lập của KTNB đối với
toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
1.2.2. Tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính
1.2.2.1. Xác định phương pháp tiếp cận của kiểm toán nội bộ
Phương pháp tiếp cận theo định hướng rủi ro là phương pháp tiếp
cận đang được KTNB trên thế giới sử dụng rộng rãi và phù hợp với đặc
thù của CTTC. Theo đó KTNB xuất phát từ việc xác định, đánh giá các
rủi ro của CTTC để xây dựng kế hoạch kiểm toán và và lựa chọn các
thủ tục kiểm toán nhằm đưa ra sự đảm bảo cho ban lãnh đạo về tính
hiệu quả và tính hiệu lực của các qui trình quản lý rủi ro của công ty.
Khi lập kế hoạch kiểm toán năm, kết quả đánh giá rủi ro là căn cứ
để xác định mức độ ưu tiên đối với các đối tượng kiểm toán. Các hoạt
động sẽ được xếp hạng theo thứ tự rủi ro từ cao đến thấp, trong đó
7
những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ được ưu tiên tập trung
nhiều nguồn lực, thời gian hơn để thực hiện kiểm toán.
Trong qui trình thực hiện kiểm toán, KTVNB dựa trên việc xác
định và đánh giá rủi ro cụ thể tại từng bộ phận nghiệp vụ để xác định
thủ tục kiểm toán phù hợp. KTV cần đánh giá khả năng của các qui
trình kiểm soát của công ty trong việc hạn chế, giảm thiểu tác động của
rủi ro đến việc đạt được các mục tiêu của công ty.
1.2.2.2. Lập kế hoạch kiểm toán năm
Thứ nhất: Thống nhất mục tiêu kiểm toán
Thứ hai: Xác định cách thức tổ chức kiểm toán
Thứ ba: Thu thập thông tin tổng quan về doanh nghiệp
Thứ tư: Đánh giá rủi ro
Thứ năm: Lập kế hoạch kiểm toán năm
1.2.2.3. Thực hiện qui trình kiểm toán nội bộ
Giai đoạn 1: Lập kế hoạch cuộc kiểm toán
Kế hoạch cuộc kiểm toán là kế hoạch kiểm toán được lập cho
từng cuộc kiểm toán tại từng bộ phận, nghiệp vụ trong CTTC nhằm chỉ
đạo tổ chức thực hiện các hoạt động cụ thể của cuộc kiểm toán.
Giai đoạn 2: Thực hiện kiểm toán nội bộ
KTV thu thập, ghi chép, phân tích và đánh giá các bằng chứng
kiểm toán. KTNB cần thu thập bằng chứng để đánh giá về tính hiệu quả
và tính hiệu lực của các qui trình nghiệp vụ, các thủ tục kiểm soát, tính
trung thực hợp lý của thông tin tài chính, sự phù hợp của mục tiêu,
chiến lược hoạt động của CTTC.
Giai đoạn 3: Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán
Tổng hợp kết quả kiểm toán: KTVNB khái quát kết quả thực hiện
kiểm tra, xác nhận, đánh giá thực trạng đối tượng KTNB trên cơ sở rà
soát toàn bộ hồ sơ kiểm toán.
Lập báo cáo kiểm toán: bao gồm kết quả kiểm toán và các kết
luận, kiến nghị kiểm toán. Khi lập báo cáo kiểm toán, KTNB tại các
CTTC cần lưu ý không chỉ mô tả các sai phạm phát hiện được, mà còn
cần phải lý giải nguyên nhân, so sánh qui trình nghiệp vụ với các
thông lệ chung, để từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị phù hợp.
Giai đoạn 4: Theo dõi việc thực hiện kiến nghị kiểm toán
KTV đánh giá mức độ thực hiện kiến nghị KTNB và lập báo cáo
tình hình thực hiện kiến nghị.
8
Một nội dung khác của tổ chức hoạt động kiểm toán là kiểm soát
chất lượng KTNB. Kiểm soát chất lượng KTNB là các hoạt động nhằm
đảm bảo các công việc KTNB được thực hiện tuân thủ các chuẩn mực và
đạt yêu cầu chất lượng.
1.2.3. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại các công ty tài chính
Tổ chức bộ máy KTNB “bao gồm con người và phương tiện chứa
đựng các yếu tố của kiểm toán để thực hiện chức năng kiểm toán”. Tổ
chức bộ máy KTNB phải dựa trên cơ sở tổ chức hoạt động KTNB và
các đặc điểm của CTTC.
Về mô hình tổ chức
Để có thể tổ chức KTNB một cách phù hợp, trước tiên cần xem xét
qui mô, cơ cấu tổ chức của từng loại hình CTTC khác nhau. Các CTTC cần
căn cứ vào đặc điểm của mình để xây dựng bộ máy KTNB phù hợp.
Các mô hình tổ chức có thể áp dụng: mô hình tổ chức KTNB tập
trung, mô hình tổ chức KTNB phân tán và mô hình kết hợp, trong đó
mô hình tập trung phù hợp nhất với cơ cấu tổ chức bộ máy tập trung,
gọn nhẹ của các CTTC.
Về tổ chức nhân sự KTNB
Đứng đầu bộ phận KTNB là trưởng bộ phận KTNB, người chịu
trách nhiệm chính trong điều hành hoạt động của KTNB. KTVNB cần
đáp ứng các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, ví
dụ các hiểu biết về kế toán tài chính và về các qui trình nghiệp vụ của
công ty.
1.3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
CTTC và NHTM đều là các TCTD, đóng vai trò là các trung gian
tài chính. CTTC và NHTM có nhiều đặc điểm tương đồng. CTTC và
NHTM đều có những nghiệp vụ tương tự và đều đối mặt với các rủi ro
đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng. Điểm khác biệt chính giữa hai loại
hình TCTD này là CTTC thường bị giới hạn trong một số hoạt động
như không nhận tiền gửi ngắn hạn, không thực hiện hoạt động thanh
toán cho khách hàng, dẫn tới hoạt động của CTTC thường được tổ chức
tập trung, bộ máy gọn nhẹ hơn các NHTM. Trong khi đó, các NHTM là
các TCTD ra đời trước, có lịch sử hoạt động lâu dài, đã đúc kết được
nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động nghiệp vụ nói chung, tổ chức
KTNB nói riêng. Do vậy, kinh nghiệm tổ chức KTNB của các NHTM
9
trên thế giới có thể coi là những bài học tốt cho tổ chức KTNB của các
CTTC trên thế giới cũng như Việt Nam.
Các kết quả khảo sát chính về KTNB tại 71 NHTM ở 13 nước tại
châu Âu, châu Mỹ và châu Á năm 2001–2002 do Ủy ban Basel thực
hiện:
Tất cả các NHTM được khảo sát đều thành lập bộ phận KTNB,
hầu hết bộ phận KTNB đều thuộc quyền kiểm soát trực tiếp của UBKT
thuộc HĐQT, hoặc ít nhất TGĐ.
Về tổ chức hoạt động KTNB:
Mọi hoạt động, mọi đơn vị trong tổ chức đều là đối tượng của KTNB.
Một cuộc KTNB bao gồm các bước: (1) Lập kế hoạch kiểm toán;
(2) Điều tra và đánh giá những thông tin sẵn có; (3) Thông báo về kết
quả kiểm toán; và (4) Theo dõi việc thực hiện các kiến nghị, chỉnh sửa
các vấn đề được nêu ra. Kế hoạch kiểm toán được lập trên cơ sở định
hướng rủi ro dựa trên mô hình chấm điểm và các phương pháp đánh giá
các thông tin định tính và định lượng.
Về tổ chức bộ máy KTNB:
Mô hình tổ chức bộ máy KTNB phổ biến nhất là mô hình tập
trung hoá. KTVNB là những người được đào tạo ở trình độ cao, đặc
biệt là tại các NHTM lớn và trong những lĩnh vực chuyên môn hoá.
Số lượng KTVNB trong tổng số nhân viên các NHTM là khác
nhau tuỳ thuộc vào quy mô và bản chất hoạt động của mỗi ngân hàng,
trung bình khoảng 1%.
Những xu hướng của KTNB: sự chuyên môn hoá ngày càng tăng
của các KTV nhằm hiểu sâu hơn về hoạt động được kiểm toán; nâng
cao sức mạnh của kiểm toán và việc đánh giá các mô hình nội bộ; và
nhấn mạnh nhiều hơn vào kiểm toán theo định hướng rủi ro.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI
CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH VIỆT NAM
2.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH VIỆT
NAM VỚI TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của các công ty tài chính Việt Nam
Các CTTC Việt Nam bắt đầu xuất hiện vào nửa cuối những năm
90, sau sự ra đời của các tổng công ty Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu
huy động cho các tổng công ty. Tính đến 31/12/2009 đã có 12 CTTC
Việt Nam đi vào hoạt động, và đều là các CTTC trực thuộc các tổng
10
công ty, tập đoàn kinh tế. Xét về hình thức sở hữu, có 5 CTTC 100%
vốn sở hữu của tập đoàn (CTTC Dệt May, CTTC Than – Khoáng
sản), và 7 CTTC sở hữu hỗn hợp, trong đó tập đoàn và các công ty
thành viên trong tập đoàn nắm giữ cổ phần chi phối (Tổng CTTC Cổ
phần Dầu khí, CTTC Cổ phần Sông Đà).
Xét về qui mô, đa số các CTTC có qui mô tương đối nhỏ, hơn
80% có số cán bộ, nhân viên dưới 200. Hơn một nửa số công ty không
có chi nhánh.
Để đánh giá thực trạng tổ chức KTNB tại các CTTC Việt Nam,
Tác giả đã gửi phiếu điều tra tới