Sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, thị trường chứng
khoán Việt Nam đã trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, là kênh huy động nguồn vốn trung
và dài hạn cho nền kinh tế. Việc hội nhập kinh tế quốc tế đã làm tăng
tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán. Điều này cho phép các
công ty có thể huy động được nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư
ra bên ngoài, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng cơ hội
kinh doanh. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin
hoàn hảo. Song ở thị trường mới nổi như Việt Nam hiện nay, thông
tin truyền tải tới nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau đã
làm ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư. Vì vậy, để đảm
bảo lợi ích cho nhà đầu tư do các tác động tiêu cực của thị trường
mang lại và đảm bảo cho thị trường vốn hoạt động hiệu quả, các
công ty đã tăng cường công bố thông tin (CBTT) ra bên ngoài nhằm
giảm thiểu tình trạng thông tin bất đối xứng, qua đó tác động tích cực
đến giá cổ phiếu và làm giảm chi phí vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, một
số ý kiến lại cho rằng, không nên CBTT nhiều bởi CBTT sẽ làm
giảm vị thế cạnh tranh, thậm chí có thể làm tăng chi phí vốn chủ sở
hữu. Và đây là một vấn đề đang gây ra nhiều tranh cãi đối với nhà
quản lý cũng như nhà đầu tư trên thị trường vốn trong thời gian vừa
qua. Mặt khác, hiện nay tác giả chưa thấy nghiên cứu nào ở Việt
Nam quan tâm đến mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và mức
độ CBTT. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài luận
văn để nghiên cứu là: “Ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin đến
chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”
26 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin đến chi phí vốn sở hữu của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
PHAN THÙY DUNG
ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ CÔNG BỐ THÔNG
TIN ĐẾN CHI PHÍ VỐN SỞ HỮU CỦA CÁC CÔNG
TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG
KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
MÃ SỐ: 60.34.03.01
Đà Nẵng – Năm 2018
Công trình được hoàn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐHĐN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐƯỜNG NGUYỄN HƯNG
Phản biện 1: TS. Nguyễn Hữu Cường
Phản biện 2: PGS.TS. Võ Văn Nhị
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ Kế toán họp tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà
Nẵng vào ngày 18 tháng 8 năm 2018
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Trung tâm Thông tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng
Thư viện trường Đại học Kinh tế, ĐHĐN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007, thị trường chứng
khoán Việt Nam đã trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, là kênh huy động nguồn vốn trung
và dài hạn cho nền kinh tế. Việc hội nhập kinh tế quốc tế đã làm tăng
tính thanh khoản trên thị trường chứng khoán. Điều này cho phép các
công ty có thể huy động được nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư
ra bên ngoài, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng cơ hội
kinh doanh. Thị trường chứng khoán hoạt động trên cơ sở thông tin
hoàn hảo. Song ở thị trường mới nổi như Việt Nam hiện nay, thông
tin truyền tải tới nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau đã
làm ảnh hưởng đến các quyết định của nhà đầu tư. Vì vậy, để đảm
bảo lợi ích cho nhà đầu tư do các tác động tiêu cực của thị trường
mang lại và đảm bảo cho thị trường vốn hoạt động hiệu quả, các
công ty đã tăng cường công bố thông tin (CBTT) ra bên ngoài nhằm
giảm thiểu tình trạng thông tin bất đối xứng, qua đó tác động tích cực
đến giá cổ phiếu và làm giảm chi phí vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, một
số ý kiến lại cho rằng, không nên CBTT nhiều bởi CBTT sẽ làm
giảm vị thế cạnh tranh, thậm chí có thể làm tăng chi phí vốn chủ sở
hữu. Và đây là một vấn đề đang gây ra nhiều tranh cãi đối với nhà
quản lý cũng như nhà đầu tư trên thị trường vốn trong thời gian vừa
qua. Mặt khác, hiện nay tác giả chưa thấy nghiên cứu nào ở Việt
Nam quan tâm đến mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và mức
độ CBTT. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tác giả đã chọn đề tài luận
văn để nghiên cứu là: “Ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin đến
chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của luận văn là tập trung nghiên cứu ảnh
hưởng của mức độ CBTT đến chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty
niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(HOSE). Trên cơ sở đó đưa ra một số hàm ý chính sách CBTT tối ưu
để đạt được lợi ích từ chi phí vốn chủ sở hữu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: nghiên cứu ảnh hưởng
của mức độ CBTT đến chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty niêm
yết trên HOSE. Cụ thể là: CBTT tự nguyện trên báo cáo thường niên
và chi phí vốn chủ sở hữu của các công ty niêm yết trên HOSE.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: các công ty phi tài chính
niêm yết trên HOSE trong vòng 5 năm (12/2012-12/2016).
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu các dữ liệu qua thời
gian kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, thu thập số liệu, vận dụng mô
hình đã nghiên cứu để kiểm chứng số liệu, phân tích kết quả và đưa
ra kết luận về mức độ ảnh hưởng của CBTT đến chi phí vốn chủ sở
hữu của các công ty niêm yết trên HOSE.
5. Bố cục đề tài
Luận văn gồm có ba chương, cụ thể là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chi phí vốn chủ sở hữu, mức độ công
bố thông tin và ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin đến chi phí
vốn chủ sở hữu
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và Hàm ý chính sách
6. Tổng quan về nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của mức độ
CBTT đến chi phí vốn chủ sở hữu. Một trong những nghiên cứu đầu
3
tiên về mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và CBTT được thực
hiện bởi Botosan (1997). Botosan đã tiến hành phân tích dữ liệu năm
1990 của 122 công ty Mỹ hoạt động trong ngành sản xuất máy móc.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, công bố báo cáo năm có mối quan hệ
ngược chiều đến chi phí vốn chủ sở hữu đối với những công ty có
chuyên gia phân tích kém nhưng không tìm thấy mối quan hệ giữa
các biến này với công ty có chuyên gia phân tích tốt. Hơn nữa,
trong một nghiên cứu mở rộng của Botosan và Plumlee (2002) với
3618 quan sát của 668 công ty trong giai đoạn 1985-1996. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng, công bố báo cáo năm sẽ làm giảm chi phí
vốn chủ sở hữu, tuy nhiên chi phí vốn chủ sở hữu lại tăng lên khi
công bố báo cáo quý. Richardson và Welker (2001) đã tiến hành
phân tích dữ liệu từ 124 công ty niêm yết tại Canada trong giai đoạn
1990 đến 1992, kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của
Botosan (1997). Bên cạnh đó, Hail (2002) đã tìm ra mối quan hệ
ngược chiều giữa chi phí vốn chủ sở hữu và CBTT tự nguyện khi
kiểm tra một mẫu của 73 công ty niêm yết tại Thụy Sỹ trong năm
1997, kết quả này trái ngược với nghiên cứu của Botosan (1997).
Cũng liên quan đến thị trường Thụy Sỹ, Petrova và cộng sự (2012)
đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và
mức độ CBTT tự nguyện trên 121 công ty phi tài chính niêm yết
trong năm 2008. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, mức độ CBTT tự
nguyện càng cao thì chi phí vốn chủ sở hữu càng thấp và việc lựa
chọn chính sách kế toán không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa chi
phí vốn chủ sở hữu và mức độ CBTT tự nguyện.
Một khía cạnh khác, Cheng và cộng sự (2006) đã tiến hành
nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và CBTT tài
chính trên 348 công ty trong giai đoạn 2001 đến 2002. Trong nghiên
cứu này, các tác giả đã đưa ra một biến mới là quyền cổ đông. Để đo
4
lường chi phí vốn chủ sở hữu, các tác giả đã sử dụng mô hình tăng
trưởng thu nhập theo giá (PEG). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng,
các công ty có quyền cổ đông và mức độ minh bạch thông tin tài
chính càng cao thì chi phí vốn chủ sở hữu càng thấp. Bên cạnh đó,
Barth và cộng sự (2011) đã thực hiện một nghiên cứu đầu tiên về
mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và minh bạch thu nhập. Kết
quả cho thấy sự minh bạch thu nhập càng cao thì chi phí vốn chủ sở
hữu càng thấp.
Qua tổng quan các nghiên cứu được thực hiện trên thế giới liên
quan đến luận văn, có thể thấy rằng, mối quan hệ giữa chi phí vốn
chủ sở hữu và mức độ CBTT là một trong những đề tài được rất
nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Tại Việt Nam, đề tài này
vẫn chưa được đi sâu vào nghiên cứu. Hầu như các nghiên cứu này
thường mang tính chất riêng lẻ và chủ yếu tập trung vào nghiên cứu
về chi phí vốn hoặc nghiên cứu về CBTT. Cho đến nay, tác giả chưa
thấy nghiên cứu chứng thực nào ở Việt Nam công bố kết quả về mối
quan hệ giữa chi phí vốn và CBTT. Vì vậy, trong nghiên cứu này tác
giả sẽ thực hiện phân tích hồi quy để làm rõ mối quan hệ giữa chi phí
vốn chủ sở hữu và CBTT tự nguyện trên báo cáo thường niên của
các công ty niêm yết trên HOSE. Trên cơ sở đó, tác giả sẽ đưa ra một
số hàm ý chính sách CBTT tự nguyện tối ưu để đạt được lợi ích từ
chi phí vốn chủ sở hữu, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trên
thị trường chứng khoán Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ VỐN CHỦ SỞ HỮU, MỨC ĐỘ
CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ
CÔNG BỐ THÔNG TIN ĐẾN CHI PHÍ VỐN CHỦ SỞ HỮU
1.1. TỔNG QUAN VỀ CHI PHÍ VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ
CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.1.1. Chi phí vốn chủ sở hữu
a. Khái niệm về chi phí vốn chủ sở hữu
Vốn là một trong những nhân tố cần thiết của quá trình sản xuất
kinh doanh. Cũng như bất kỳ một nhân tố nào khác, để sử dụng vốn,
công ty cần phải bỏ ra một chi phí nhất định. Có thể hiểu, chi phí vốn
là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Mỗi một hình thức sử dụng
vốn thì có một chi phí vốn khác nhau. Theo cách phân loại phổ biến
nhất, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: nợ phải trả và vốn chủ
sở hữu. Trong đó, nguồn vốn chủ sở hữu được huy động bằng cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, vốn góp cổ đông và lợi nhuận giữ lại.
Chi phí vốn chủ sở hữu được định nghĩa là tỷ suất sinh lợi tối thiểu
mà các nhà đầu tư kỳ vọng khi đầu tư vào một công ty (Botosan
(2006), Gitman (2009)). Lúc đó nhà đầu tư sẽ yêu cầu một mức sinh
lợi tương xứng với mức độ rủi ro mà nhà đầu tư có khả năng gặp
phải khi đầu tư. Trong khi đó, dưới góc độ của doanh nghiệp, chi phí
vốn chủ sở hữu là tỷ suất sinh lợi phải đạt được khi doanh nghiệp sử
dụng một nguồn vốn chủ sở hữu và đảm bảo rằng tỷ suất sinh lợi của
vốn chủ sở hữu hoặc thu nhập trên một cổ phiếu không bị sụt giảm.
Có thể thấy, chi phí vốn chủ sở hữu là một chỉ số tài chính quan
trọng đối với những người hoạt động thị trường chứng khoán, đặc
biệt là đối với nhà quản lý và nhà đầu tư. Do đó, việc xác định chi
phí vốn chủ sở hữu sẽ làm cơ sở nền tảng cho các nhà quản lý trong
việc lựa chọn dự án đầu tư nhằm gia tăng giá trị doanh nghiệp.
6
b. Các loại chi phí vốn chủ sở hữu
b.1. Chi phí vốn cổ phần thường
Chi phí vốn lợi nhuận giữ lại
Lợi nhuận sau thuế của công ty thuộc về người nắm giữ cổ phiếu
thường. Chi phí của lợi nhuận giữ lại được đo lường bằng chi phí cơ
hội, tức là nếu những lợi nhuận này được chia thì cổ đông có thể đầu
tư và thu lợi nhuận từ bên ngoài doanh nghiệp.
Chi phí vốn cổ phần thường mới
Chi phí vốn cổ phần thường mới là mức tỷ suất lợi nhuận tối thiểu
cần phải đạt được về sự đầu tư mới được tài trợ bằng cổ phiếu thường
mới để giữ cho thu nhập của các cổ đông cũ không bị giảm sút.
b.2. Chi phí vốn cổ phiếu ưu đãi
Chủ sở hữu của cổ phiếu ưu đãi được nhận tiền lãi cố định hàng
năm theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá. Nhưng tiền lãi phải trả
cho cổ phiếu ưu đãi không được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp. Và người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không có
quyền tham gia phân phối lợi nhuận cao, do đó không được hưởng tỷ
suất tăng trưởng của lợi nhuận.
b.3. Chi phí vốn cận biên
Trong kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn tối giảm
chi phí, do đó các công ty sẽ lựa chọn nguồn vốn có chi phí thấp nhất
đến nguồn vốn có chi phí cao hơn. Khi doanh nghiệp cố gắng huy
động thêm những đồng vốn mới thì chi phí sử dụng của mỗi đồng
vốn tại một thời điểm nào đó sẽ tăng lên. Vì vậy, chi phí cận biên về
sử dụng vốn là chi phí cho một đồng vốn tăng thêm khi vượt qua một
mức vốn nào đó. Chi phí vốn cận biên sẽ tăng lên khi càng nhiều vốn
được huy động trong một giai đoạn nào đó.
7
c. Phương pháp đo lường chi phí vốn chủ sở hữu
Để đo lường chi phí vốn, nghiên cứu này xem xét ba mô hình sau:
(1) Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM)
(2) Mô hình Fama-French ba nhân tố
(3) Mô hình tăng trưởng thu nhập theo giá (PEG)
1.1.2. Công bố thông tin và mức độ công bố thông tin
a. Khái niệm về công bố thông tin
Trong luận văn này, CBTT được nghiên cứu là thông tin tự
nguyện. Có nhiều định nghĩa khác nhau về CBTT tự nguyện. Theo
Meek và cộng sự (1995) CBTT tự nguyện là công bố những thông
tin vượt quá các quy định bắt buộc, những thông tin này được lựa
chọn tự do từ nhà quản lý công ty nhằm cung cấp các thông tin về kế
toán và các thông tin khác có liên quan đến nhu cầu của người sử
dụng. CBTT tự nguyện giúp công ty đạt được mục tiêu huy động vốn
với chi phí thấp (Choi,1973). Sự cạnh tranh về vốn sẽ khiến cho các
công ty tăng lượng CBTT tự nguyện ra bên ngoài nhằm cung cấp tín
hiệu tích cực cho nhà đầu tư về triển vọng tăng trưởng, do đó sẽ làm
tăng giá trị cổ phiếu hơn.
b. Mức độ công bố thông tin
Sau khi lựa chọn được các mục thông tin cần được thiết lập, tiến
hành đối chiếu với báo cáo thường niên thu thập được. Các mục
thông tin được trình bày thì sẽ được cho điểm và ngược lại. Có hai
cách để cho điểm đối với chỉ mục thông tin, như sau:
- Đo lường không có trọng số
- Đo lường có trọng số
1.2. CÁC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI PHÍ
VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.2.1. Lý thuyết đại diện (Agency theory)
Lý thuyết đại diện định nghĩa mối quan hệ đại diện như một hợp
đồng, theo đó một hay nhiều người quan trọng cam kết với người đại
8
diện để thực hiện một vài dịch vụ nhân danh họ (Jensen & Meckling,
1976). Lý thuyết đại diện giả định rằng cả hai bên đều muốn tối đa
hóa lợi ích của mình.
1.2.2. Lý thuyết tín hiệu (Signaling theory)
Spence (1973) đã đưa ra lý thuyết tín hiệu với giả định rằng tồn
tại thông tin bất đối xứng và một trạng thái cân bằng trong đó đối
tượng có lợi thế về thông tin tốt hơn nên cung cấp một số tín hiệu
cho các đối tượng khác. Các công ty có kết quả hoạt động tốt thường
sử dụng thông tin tài chính như là một công cụ truyền tín hiệu đến thị
trường (Ross, 1977).
1.2.3. Lý thuyết thông tin bất đối xứng (Asymmetric
information theory)
Thông tin bất đối xứng xảy ra khi một hoặc nhiều nhà đầu tư sở
hữu được thông tin riêng (Kyle, 1985) hoặc có nhiều thông tin đại
chúng hơn về một công ty (Kim và Verrecchia, 1994 và 1997). Tình
trạng thông tin bất đối xứng tạo ra những rủi ro tiềm ẩn, gây ra hiện
tượng cung cầu ảo trên thị trường chứng khoán, khiến nhà đầu tư
không thể nhận biết được cổ phiếu của công ty hoạt động tốt với cổ
phiếu của công ty hoạt động kém và đưa ra các quyết định chính
xác. Vì vậy, để giảm thiểu tình trạng thông tin bất đối xứng, các công
ty đã tích cực CBTT giúp nhà đầu tư biết đến uy tín, danh tiếng cũng
như tiềm năng của công ty, từ đó làm tăng giá trị cổ phiếu và giảm
chi phí vốn chủ sở hữu.
1.2.4. Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary Costs Theory)
Nội dung của lý thuyết này nhấn mạnh đến các lợi ích mà nhà
quản lý nhận được và chi phí cho việc công bố thông tin ra bên
ngoài. Việc CBTT nhiều hơn đến các nhà đầu tư có thể làm ảnh
hưởng đến vị thế cạnh tranh của công ty trên thị trường chứng khoán.
Darough (1993) cho rằng, các công ty có thể chấp nhận chi phí vốn
cao hơn để hạn chế CBTT nhằm tránh làm giảm vị thế cạnh tranh.
9
1.3. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ
CÔNG BỐ THÔNG TIN ĐẾN CHI PHÍ VỐN CHỦ SỞ HỮU
1.3.1. Tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí vốn
chủ sở hữu
Esmaeelzadeh và cộng sự (2012) đã thực hiện phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đến chi phí vốn chủ sở hữu dựa trên 90 công ty niêm
yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tehran. Các nhân tố được xác
định ảnh hưởng đến chi phí vốn chủ sở hữu trong nghiên cứu này là:
mức độ CBTT, tỷ lệ nợ, lĩnh vực hoạt động và quy mô công ty. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, quy mô công ty và lĩnh vực hoạt động là
những nhân tố ảnh hưởng đến chi phí vốn chủ sở hữu. Một nghiên
cứu khác của Gebhardt và cộng sự (2002) đã chỉ ra rằng, tỷ lệ giá trị
ghi sổ/giá thị trường (B/M) là biến quan trọng nhất giải thích chi phí
vốn chủ sở hữu, tuy nhiên kết quả nghiên cứu không tìm thấy mối
quan hệ tiêu cực giữa quy mô công ty và phần bù rủi ro.
1.3.2. Đo lường chi phí vốn chủ sở hữu và mức độ công bố
thông tin trong các nghiên cứu liên quan
Với mỗi cách tiếp cận trong mỗi nghiên cứu thực chứng về mối
quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và mức độ CBTT thì sẽ có một
phương pháp đo lường chi phí vốn chủ sở hữu và mức độ CBTT
khác nhau. Botosan (1997) đã sử dụng mô hình đánh giá dựa trên cơ
sở kế toán (Accounting Base Assessment Model - EBO) để đo lường
chi phí vốn chủ sở hữu. Bên cạnh đó, tác giả xây dựng danh mục
CBTT với năm thành phần là: thông tin cơ bản, tóm tắt về kết quả
hoạt động trong 5 năm hoặc 10 năm qua, thông tin phi tài chính
chính, thông tin dự báo, phân tích và bàn luận về quản lý. Các chỉ
mục CBTT sẽ được cho điểm tùy theo nội dung, cụ thể là: 1 điểm đối
với chỉ mục thông tin công bố về thông tin giới thiệu công ty, 2 điểm
đối với chỉ mục thông tin công bố về số liệu thống kê và các tỷ số tài
chính và 3 điểm đối với chỉ mục thông tin công bố về thông tin dự
10
báo. Mỗi thành phần CBTT tương ứng với 20% trong tổng số điểm
CBTT. Trong nghiên cứu này, mức độ CBTT của mỗi thành phần
được xác định bằng cách lấy tổng điểm các chỉ mục thông tin thành
phần chia cho số điểm tối đa đạt được cho thành phần đó, rồi nhân
với 20%. Còn mức độ CBTT của mỗi công ty được xác định bằng
tổng điểm các chỉ mục của năm thành phần CBTT.
1.3.3. Ảnh hưởng của mức độ công bố thông tin đến chi phí
vốn chủ sở hữu
Trước đây, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu thực chứng về mối
quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và CBTT nhưng kết quả nghiên
cứu vẫn chưa thống nhất. Thông thường, CBTT càng nhiều thì chi phí
vốn chủ sở hữu càng thấp. Tuy nhiên, nghiên cứu của Botosan và
Plumlee (2002) lại có kết quả trái ngược với kỳ vọng. Trong nghiên
cứu của họ có ba loại thông tin được công bố là: báo cáo năm, báo cáo
quý và báo cáo hoạt động quan hệ đầu tư. Botosan và Plumlee (2002)
cho rằng việc công bố các báo cáo năm sẽ làm giảm chi phí vốn chủ sở
hữu, nhưng chi phí vốn chủ sở hữu lại tăng khi CBTT kịp thời (báo
cáo quý và báo cáo hoạt động quan hệ đầu tư). Các tác giả cũng không
tìm thấy được mối quan hệ giữa chi phí vốn chủ sở hữu và mức độ
CBTT về hoạt động quan hệ đầu tư. Có thể được giải thích rằng, công
bố thường xuyên hơn sẽ làm biến động tâm lý của các nhà đầu tư trong
ngắn hạn dẫn đến việc đánh giá thấp giá trị cổ phiếu và làm tăng chi
phí vốn chủ sở hữu. Mặt dù, kết quả nghiên cứu của Botosan và
Plumlee (2002) trái ngược với lý thuyết, tuy nhiên kết quả này vẫn
được nhiều sự đồng thuận từ phía nhà quản lý.
Ngược lại, trong nghiên cứu của Geitzmann và Ireland (2005) lập
luận rằng CBTT càng nhiều chi phí vốn chủ sở hữu càng thấp. Và
các tác giả chỉ ra rằng, vấn đề về đo lường chỉ số CBTT trong nghiên
cứu của Botosan và Plumlee (2002) đã dẫn đến chi phí vốn chủ sở
hữu tăng lên khi CBTT kịp thời.
11
1.4. KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU
Trong luận văn này, CBTT mà tác giả hướng đến đó là thông tin
tự nguyện được công bố trong các báo cáo thường niên trên website
của công ty. Bên cạnh đó, tác giả sẽ chọn mô hình tăng trưởng thu
nhập theo giá (PEG) để đo lường chi phí vốn chủ sở hữu và sử dụng
phương pháp đo lường có trọng số để đo lường mức độ CBTT.
Nghiên cứu này sẽ kiểm tra ảnh hưởng của mức độ CBTT tự nguyện
đến chi phí vốn chủ sở hữu. Qua đó, tác giả sẽ đưa ra một số hàm ý
chính sách CBTT tự nguyện tối ưu để đạt được lợi ích từ chi phí vốn
chủ sở hữu, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
12
CHƯƠNG 2
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ
GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
(HOSTC) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg
ngày 11/07/1998 và chính thức tổ chức phiên giao dịch đầu tiên vào
ngày 28/7/2000. Sự ra đời của HOSTC đã đánh dấu một bước ngoặt
lớn trong lịch sử của thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày
11/05/2007, Trung Tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh được chuyển thành Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh theo Quyết định số 599/QĐ -TTg và hoạt động theo mô
hình Công ty TNHH Một Thành viên với 100% vốn chủ sở hữu
thuộc Bộ Tài chính.
2.2. GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT
2.2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, tác giả đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ
giữa chi phí vốn chủ sở hữu và CBTT tự nguyện là thông tin được
công bố trên báo cáo thường niên. Karim (1996) cho rằng mức độ
CBTT càng tốt càng làm giảm tình trạng thông tin bất đối xứng giữa
các nhà đầu tư và công ty, làm tăng giá trị và tính thanh khoản của cổ
phiếu trên thị trường. Các ý kiến cho thấy rằng, những công ty có
mức độ CBTT tương đối cao thường có chi phí vốn chủ sở hữu thấp
hơn (Walter, 2006). Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết
và thực chứng về