Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trường, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực của Việt Nam ngày càng sâu rộng; vai trò, vị trí, chức năng của các đơn
vị sự nghiệp công lập đã có sự thay đổi: từ chỗ là một bộ phận cấu thành của hệ
thống quản lý Nhà nước chuyển thành các đơn vị có nhiệm vụ đáp ứng dịch vụ
cho xã hội, từ chỗ Nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ công, sang vị
trí được các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ.
Trong quá trình đó, chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công lập
cũng đã có nhiều đổi thay; nhưng đó mới chỉ là những sửa đổi, điều chỉnh do đòi
hỏi từ thực tế quản lý, còn mang đậm nét bao cấp, chủ yếu chỉ mới tập trung hoàn
thiện về quản lý chi ngân sách Nhà nước, bộc lộ nhiều vấn đề không phù hợp với
cơ chế thị trường. Bởi vậy, đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công đang cần những giải pháp tổng thể.
Luận án đã chọn Đề tài “Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công ở Việt nam”, nhằm góp thêm ý kiến vào quá trình phát triển và hội
nhập kinh tế của Việt Nam.
24 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án:
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp sang cơ chế thị trường, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực của Việt Nam ngày càng sâu rộng; vai trò, vị trí, chức năng của các đơn
vị sự nghiệp công lập đã có sự thay đổi: từ chỗ là một bộ phận cấu thành của hệ
thống quản lý Nhà nước chuyển thành các đơn vị có nhiệm vụ đáp ứng dịch vụ
cho xã hội, từ chỗ Nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ công, sang vị
trí được các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ.
Trong quá trình đó, chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công lập
cũng đã có nhiều đổi thay; nhưng đó mới chỉ là những sửa đổi, điều chỉnh do đòi
hỏi từ thực tế quản lý, còn mang đậm nét bao cấp, chủ yếu chỉ mới tập trung hoàn
thiện về quản lý chi ngân sách Nhà nước, bộc lộ nhiều vấn đề không phù hợp với
cơ chế thị trường. Bởi vậy, đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công đang cần những giải pháp tổng thể.
Luận án đã chọn Đề tài “Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công ở Việt nam”, nhằm góp thêm ý kiến vào quá trình phát triển và hội
nhập kinh tế của Việt Nam.
2. Tổng quan về tình hình các nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án:
Đây là một vấn đề rất được quan tâm, đã có nhiều công trình nghiên cứu các
nội dung có liên quan, như: đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Đổi mới cơ chế
quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu” năm 1997, do PTS Trần Thu
Hà - Chủ nhiệm đề tài; đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực trạng và giải
pháp tài chính nhằm thực hiện khoán chi đối với cơ quan hành chính và cơ chế tự
trang trải ở đơn vị sự nghiệp có thu” năm 2001, do TS Bạch Thị Minh Huyền -
Chủ nhiệm đề tài; đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện cơ chế quản lý
tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp” năm 2003, do TS Phạm Đức Phong - Chủ
nhiệm đề tài; luận án Tiến sỹ “Đổi mới cơ chế quản lý chi ngân sách Nhà nước
trong lĩnh vực y tế ở Việt nam trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước” năm 2003 của NCS Nguyễn Trường Giang; luận án
Tiến sỹ “Hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy xã hội hoá giáo dục ở Việt
Nam” năm 2006, của NCS Bùi Tiến Hanh...
Nhìn chung các luận án, đề tài đã nghiên cứu sâu về cơ chế quản lý tài chính,
theo từng vấn đề: quản lý chi NSNN, quản lý tài sản công... hoặc nghiên cứu theo
từng đối tượng cụ thể như: giáo dục, y tế... Các tác giả đã tổng kết đánh giá thực
tiễn; các giải pháp, kiến nghị giải quyết những vấn đề tại thời điểm nghiên cứu;
chưa tập trung phân tích sâu về lý luận; chưa có nghiên cứu tổng quan chung về
chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công.
Bởi vậy Luận án này, đảm bảo được tính cấp thiết và không trùng lặp với các
đề tài đã nghiên cứu.
2
3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của luận án:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách tài chính
đối với khu vực sự nghiệp công, làm rõ sự cần thiết và kiến nghị những giải pháp
đổi mới chính sách tài chính đối với các khu vực sự nghiệp công trong điều kiện
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận án:
Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá về chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công trong thời kỳ 1990-2010 ở một số ngành như giáo dục, y tế, khoa
học và công nghệ, văn hoá, một số loại hình sự nghiệp công ích; đi sâu phân tích
về các chính sách: đầu tư của NSNN, tín dụng, quản lý tài sản, thuế, quản lý lao
động, tiền lương, chế độ kế toán... đối với các đơn vị sự nghiệp công.
Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích giải quyết các vấn đề thực
tiễn đang đặt ra cho giai đoạn 2011 - 2020.
5. Các phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, phân tích luận án sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, lý luận kinh tế chính trị
học Mác - Lê Nin được sử dụng trong hầu hết những nội dung của luận án.
- Sử dụng những nguyên lý của kinh tế học và kinh tế học công cộng để
nghiên cứu về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp công.
- Các phương pháp: phân tích hệ thống, phân tích thống kê, phương pháp tổng
hợp, khái quát hoá, mô hình hoá cũng được sử dụng như là công cụ để rút ra các
kết luận tổng quát trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tiễn.
6. Đóng góp mới của luận án:
- Luận án đã tiếp cận nghiên cứu tài chính của đơn vị sự nghiệp công theo các
mối quan hệ với: Nhà nước, các chủ thể cung cấp đầu vào cho đơn vị, các chủ thể
sử dụng dịch vụ của đơn vị sự nghiệp và người lao động làm việc trong các đơn
vị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở đơn vị sự nghiệp công;
qua đó đã làm rõ bản chất tài chính của đơn vị sự nghiệp công trong nền kinh tế
thị trường, cần tuân thủ các qui luật của thị trường: thực hiện hạch toán đầy đủ
chi phí hoạt động, giá dịch vụ theo cơ chế cạnh tranh trong việc cung cấp dịch
vụ từ đó hình thành những yêu cầu về cơ chế quản lý, cách thức điều tiết, can
thiệp của Nhà nước.
- Qua phân tích mối quan hệ tài chính giữa đơn vị sự nghiệp công với Nhà
nước: đã làm rõ kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp để thực hiện nhiệm vụ Nhà
nước giao, chính là Nhà nước mua dịch vụ của đơn vị; do vậy chi ngân sách Nhà
nước đã tạo ra thu nhập của đơn vị sự nghiệp để bù đắp chi phí trong quá trình
hoạt động, đơn vị được quyền quyết định trong việc quản lý, sử dụng kinh phí
này; chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công cần đổi mới theo hướng
xoá bỏ bao cấp, thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính và hoạt động
của đơn vị sự nghiệp công.
3
- Đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công được luận giải
là một quá trình liên tục, hướng đến mục tiêu quản lý chi ngân sách Nhà nước
cho các đơn vị sự nghiệp theo kết quả hoạt động.
- Đề xuất các giải pháp trước mắt và chiến lược nhằm đổi mới chính sách tài
chính đối với khu vực sự nghiệp công. Trong đó đề xuất mới là: (1)Chuyển chính
sách phí, lệ phí hiện nay sang chính sách quản lý giá dịch vụ theo hướng các đơn
vị sự nghiệp thực hiện hạch toán đầy đủ chi phí hoạt động, bao gồm cả chi phí
khấu hao tài sản; (2)Các đơn vị, các hoạt động sự nghiệp là đối tượng chịu thuế
GTGT, thuế TNDN và thuế sử dụng đất. Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô bằng
các chính sách chính sách thuế, áp dụng mức thuế suất ưu đãi (0%, 5%, 10%...)
tuỳ theo ngành, lĩnh vực, địa bàn hoạt động mà Nhà nước cần ưu tiên, ưu đãi; tuỳ
theo mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định; (3)Chuyển cơ chế chi
NSNN cho các đơn vị sự nghiệp công theo cơ chế bao cấp hiện nay sang quản lý
theo kết quả hoạt động; có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng Nhà
nước cần đảm bảo: các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo....; (4)Xây dựng
cơ chế kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp: thực hiện phân
cấp, tổ chức hệ thống đánh giá theo hai cấp độ (tự kiểm tra đánh giá và kiểm tra,
đánh giá từ bên ngoài); xây dựng hệ thống các tiêu chí đo lường đánh giá kết quả
hoạt động ở cả hai cấp độ.
Tuy vậy, những nghiên cứu của Luận án chưa đi sâu đánh giá về định lượng,
do vậy trong hoạt động thực tiễn cần lượng hoá các tác động của chính sách để
có bước đi phù hợp. Các đề xuất về chính sách mang tính tổng quan chung cho cả
khu vực sự nghiệp, trong hoạt động thực tiễn cần cụ thể hoá để phù hợp với đặc
điểm, yêu cầu cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương.
7. Kết cấu của luận án:
Luận án gồm có 3 chương, được trình bày trong 163 trang, không kể phần mở
đầu, kết luận, các phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
KHU VỰC SỰ NGHIỆP CÔNG VÀ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI KHU VỰC SỰ NGHIỆP CÔNG
1.1. Khu vực sự nghiệp công trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1. Sự hình thành khu vực sự nghiệp công trong nền kinh tế quốc dân.
Luận án đã phân tích và trình bày khái quát về các quan niệm về sự nghiệp
công, quá trình hình thành của khu vực sự nghiệp công; trên cơ sở nghiên cứu
các tài liệu và thực tiễn để phân tích và đưa ra khái niệm khu vực sự nghiệp công
là một tập hợp bao gồm các đơn vị sự nghiệp được Nhà nước thành lập, để thực
hiện các nhiệm vụ của Nhà nước giao trong các lĩnh vực chuyên môn, kinh phí
hoạt động do Nhà nước cấp không vì mục tiêu lợi nhuận.
Qua việc xem xét đã rút ra kết luận khu vực sự nghiệp công được hình thành
trong thời kỳ phát triển nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp,
thuộc khu vực không sản xuất vật chất, kinh phí hoạt động do NSNN cấp thông
4
qua phân phối lại thu nhập quốc dân; trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường, khu vực sự nghiệp công đã tách ra khỏi các cơ quan hành chính
Nhà nước, đảm nhận việc cung cấp các dịch vụ công cho xã hội với tư cách như
là một đơn vị kinh tế, vận hành theo những yêu cầu của thị trường.
Luận án đã trình bày 5 cách phân loại đơn vị sự nghiệp công: phân theo
ngành, lĩnh vực hoạt động, phân theo tính chất của cơ quan trực tiếp quản lý,
phân theo cấp hành chính, phân theo cấp dự toán và phân theo cơ cấu nguồn kinh
phí. Qua mỗi cách phân loại đã làm rõ được sự khác biệt theo từng ngành, vùng
miền, theo phân cấp quản lý... để làm cơ sở luận giải về thực trạng cũng như đề
xuất những kiến nghị về chính sách tài chính phù hợp với từng loại hình hoạt
động sự nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của khu vực sự nghiệp công trong nền kinh tế quốc dân.
Luận án đã phân tích, luận giải được những đặc điểm về vai trò, chức năng
của khu vực sự nghiệp công trong nền kinh tế quốc dân.
Sử dụng nguyên lý của kinh tế học và kinh tế học công cộng, Luận án đã phân
tích về bản chất của những hàng hoá, dịch vụ do các đơn vị sự nghiệp công cung
cấp cho xã hội; đã làm rõ đặc điểm về hoạt động của khu vực sự nghiệp công
trong nền kinh tế thị trường, qua đó luận giải rõ về cơ chế, cách thức can thiệp,
điều tiết, tác động đối với thị trường bằng những chính sách tài chính đối với đối
với từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp công.
1.2. Tài chính của khu vực sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường.
Trong phần này, luận án đã đi sâu phân tích những nội dung cơ bản nhất về
tài chính, tài chính Nhà nước và tài chính công, qua đó đã làm rõ được đặc điểm
về bản chất, chức năng, nội dung của của tài chính công. Trên cơ sở đó đã luận
giải rõ về tài chính của khu vực sự nghiệp công trên các vấn đề:
- Tài chính của khu vực sự nghiệp công là một phạm trù kinh tế, phản ánh các
mối quan hệ giữa các đơn vị thuộc khu vực sự nghiệp công với Nhà nước và các
chủ thể khác trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thực
hiện các nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho các đơn vị thuộc khu vực sự nghiệp
công.
- Nội dung của tài chính khu vực sự nghiệp công bao gồm:
+ Nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp để thực hiện nhiệm vụ Nhà
nước giao - Đây là bộ phận chính, thuộc phạm vi của tài chính công (xét trong
phạm vi quan hệ giữa đơn vị sự nghiệp với NSNN). Tuy vậy xét trong mối quan
hệ nội tại của từng đơn vị thì nguồn kinh phí này là Nhà nước mua dịch vụ, sản
phẩm của đơn vị sự nghiệp; do vậy hình thành quỹ thu nhập của bản thân đơn vị
sự nghiệp để bù đắp chi phí trong quá trình hoạt động; đơn vị được quyền chủ
động trong việc quản lý, sử dụng kinh phí này. Đây là vấn đề mang tính bản chất
để Nhà nước hình thành các chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công.
+ Nguồn kinh phí từ các khoản thu sự nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ của
đơn sự nghiệp: đơn vị được toàn quyền quyết định trong việc thu trên cơ sở thoả
5
thuận với các chủ thể khi cung cấp dịch vụ; đây là cơ sở hình thành giá dịch vụ
theo các quy luật của kinh tế thị trường.
+ Nguồn vốn huy động từ các quan hệ tín dụng, tài trợ, liên doanh, liên kết với
các chủ thể khác nhằm mở rộng, phát triển các hoạt động sự nghiệp. Việc huy
động các nguồn vốn này bị chi phối bởi các quy luật của thị trường.
+ Các quỹ tài chính của đơn vị sự nghiệp được hình thành trong quá trình
phân phối lại (xét trong quan hệ nội bộ đơn vị) thu nhập sau thuế của đơn vị sự
nghiệp: đó là việc tạo lập và sử dụng các quỹ thuộc sở hữu của đơn vị.
- Để thấy rõ hơn về bản chất của tài chính đơn vị sự nghiệp, luận án đã đi sâu
phân tích về mối quan hệ giữa đơn vị sự nghiệp với các chủ thể:
+ Mối quan hệ với Nhà nước: được đánh giá trên các vấn đề sử dụng nguồn
kinh phí do NSNN cấp cho hoạt động của đơn vị sự nghiệp để thực hiện các
nhiệm vụ được giao; quản lý và sử dụng vốn, tài sản do Nhà nước cấp; là đối
tượng chịu sự điều tiết của Nhà nước thông qua các chính sách thuế. Đây là mối
quan hệ chủ đạo, là cơ sở quan trọng trong việc hình thành chính sách tài chính.
+ Mối quan hệ với các chủ thể cung cấp các đầu vào của đơn vị sự nghiệp,
các chủ thể sử dụng các dịch vụ, sản phẩm do đơn vị sự nghiệp cung cấp; mối
quan hệ với người lao động làm việc trong đơn vị sự nghiệp... Đây là các quan hệ
tài chính do chủ thể đơn vị sự nghiệp tự quyết định, tự chịu trách nhiệm, vận
hành theo các qui luật của thị trường; qua đó đã làm rõ được cơ chế quản lý, cách
thức Nhà nước cần can thiệp, tác động vào các mối quan hệ này. Đây là cơ sở để
xây dựng chính sách tài chính cho khu vực sự nghiệp công phù hợp với các quy
luật của thị trường.
1.3. Chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công trong nền kinh tế
quốc dân.
1.3.1. Quan niệm về chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công.
Trên cơ sở phân tích, luận giải về chủ thể, đối tượng, mục tiêu và phương tiện
của chính sách, luận án đã đưa ra quan niệm chính sách tài chính đối với khu vực
sự nghiệp công được hiểu là tổng hoà các chuẩn tắc và biện pháp cơ bản Nhà
nước đặt ra để quản lý hoạt động tài chính, giải quyết mối quan hệ tài chính của
các đơn vị sự nghiệp công nhằm phát triển khu vực sự nghiệp công, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về các dịch vụ sự nghiệp của xã hội
và phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế quốc dân.
1.3.2. Nội dung của chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công.
Luận án đã tập trung nghiên cứu, luận giải rõ hệ thống chính sách tài chính
đối với khu vực sự nghiệp công bao gồm các nhóm chính sách:
Thứ nhất là chính sách về đầu tư của Nhà nước cho khu vực sự nghiệp công
nhằm phát triển các hoạt động sự nghiệp, đáp ứng nhu cầu của xã hội và tham gia
vào việc can thiệp, điều tiết thị trường.
Thứ hai là chính sách về quản lý vốn và tài sản Nhà nước đã đầu tư cho các
đơn vị thuộc khu vực sự nghiệp công: cần thực hiện hạch toán đầy đủ chi phí
6
khấu khao vào giá thành hoạt động dịch vụ nhằm bảo toàn và phát triển nguồn
vốn thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn vị.
Thứ ba là chính sách quản lý giá dịch vụ sự nghiệp để Nhà nước thực hiện
chức năng can thiệp, điều tiết thị trường; quản lý giá dịch vụ phù hợp với chất
lượng dịch vụ để đảm bảo quyền được tiếp cận những dịch vụ cơ bản của người
dân; giá dịch vụ đảm bảo bù đắp chi phí để các đơn vị sự nghiệp tiếp tục đầu tư
phát triển các hoạt động sự nghiệp đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Thứ tư là chính sách thuế: áp dụng các mức thuế suất ưu đãi nhằm khuyến
khích, hỗ trợ đối với các đơn vị thuộc khu vực sự nghiệp công; đồng thời là công
cụ điều tiết vĩ mô nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho các hoạt
động sự nghiệp.
Thứ năm là chính sách tín dụng Nhà nước để hỗ trợ các đơn vị sự nghiệp
công phát triển hoạt động và hỗ trợ người dân trong việc tiếp cận dịch vụ; thực
hiện bằng các hỗ trợ về tín chấp, ưu đãi lãi suất, ưu đãi về thời hạn vay dài hạn,
chi ngân sách Nhà nước để hỗ trợ trả nợ vay trong những trường hợp cần sự đầu
tư, hỗ trợ của Nhà nước.
Trên cơ sở nghiên cứu các nhóm chính sách nêu trên, việc đánh giá thực
trạng cũng như các đề xuất về giải pháp đổi mới chính sách tài chính đối với khu
vực sự nghiệp công đều bám sát theo năm nhóm vấn đề này.
1.3.3. Những nhân tố tác động đến chính sách tài chính đối với khu vực sự
nghiệp công.
Luận án đã chỉ ra có ba nhóm nhân tố chủ yếu có sự tác động trực tiếp đến
chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công, đó là:
Thứ nhất là nhận thức của các chủ thể tham gia vào các quan hệ tài chính, bao
gồm: nhận thức của cơ quan hoạch định, ban hành và kiểm tra, giám sát việc
chính sách; nhận thức của các đơn vị sự nghiệp (là nơi tổ chức thực thi chính
sách), nhận thức của xã hội và của người được cung cấp dịch vụ sự nghiệp. Đây
là nhóm nhân tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định ngay từ quá trình
nghiên cứu, hoạch định, ban hành và tổ chức thực thi chính sách.
Thứ hai là mục tiêu của Nhà nước: đây là cơ sở để hình thành chính sách tài
chính, đồng thời cũng là tiêu chí để đánh giá mức độ tác động của chính sách.
Tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của Nhà nước đối với từng lĩnh vực, trong từng
thời kỳ nhất định để xây dựng chính sách phù hợp.
Thứ ba là phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và đặc điểm kinh
tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực hoạt động sự nghiệp để có những chính sách
phù hợp với những điều kiện cụ thể của ngành, địa phương.
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và đổi mới chính sách tài chính đối
với khu vực sự nghiệp công.
1.4.1. Kinh nghiệm đổi mới chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp
công của Trung Quốc.
7
Trung Quốc là quốc gia đã và đang thực hiện quá trình chuyển đổi từ kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường; khu vực sự nghiệp công ở
Trung Quốc cũng có nhiều đặc điểm và quá trình hình thành, phát triển tương tự
như ở nước ta. Luận án đã nghiên cứu, tổng kết và rút ra được một số vấn đề kinh
nghiệm của Trung quốc trong quá trình đổi mới chính sách tài chính đối với khu
vực này có thể vận dụng vào Việt Nam, đó là:
- Xác định phạm vi của tài chính công và chi tiêu công cộng: là những vấn đề
mà khu vực tư nhân, doanh nghiệp không thể và không muốn làm, nhưng rất cần
thiết cho xã hội; những vấn đề chỉ có Nhà nước mới thực hiện được; Nhà nước
phải thực hiện để điều hoà lợi ích của các bên.
- Các đơn vị sự nghiệp được phân theo 3 nhóm: (1)các hoạt động do NSNN
đảm bảo toàn bộ; (2)các hoạt động mà đối tượng được hưởng dịch vụ cần chịu
một phần chi phí, tài chính công có thể dùng hình thức hỗ trợ; (3)các hoạt động
không thuộc nhu cầu công cộng cần hoạt động theo cơ chế thị trường.
- Kinh nghiệm trong việc thực hiện cơ chế khoán kinh phí hoạt động cho các
đơn vị sự nghiệp; trong việc đánh giá hiệu quả chi công cộng.
1.4.2. Kinh nghiệm của các nước về đổi mới chi ngân sách Nhà nước đối với
khu vực sự nghiệp công theo kết quả hoạt động.
Vấn đề đổi mới quản lý chi ngân sách theo kết quả đầu ra đang là một xu thế
phổ biến được chính phủ của nhiều quốc gia thực hiện; Việt Nam cũng đã bắt đầu
nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước để thực hiện quản lý chi ngân
sách theo kết quả đầu ra, tuy vậy việc áp dụng cần phải có bước đi phù hợp.
Luận án đã khảo cứu kinh nghiệm của Pháp và New Zealand là hai quốc gia
có nhiều nét tương đồng với Việt Nam về cấu trúc hành chính và quản lý tài
chính công; kinh nghiệm của Hàn Quốc là nước có nhiều đặc điểm và trình độ
phát triển ở mức mà Việt Nam có thể đạt tương đương trong thời gian tới.
Qua nghiên cứu đã rút ra được 3 vấn đề có thể áp dụng vào việc đổi mới
chính sách tài chính đối với khu vực sự nghiệp công:
- Xác định mục tiêu, nhiệm vụ hoạt động sự nghiệp và dự toán ngân sách: đây
là vấn đề quan trọng và cần được xác định rõ ở cấp độ vĩ mô, các địa phương và
từng đơn vị sự nghiệp.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí kiểm tra, giám sát, đánh giá: đây là cơ sở để đo
lường, đánh giá kết quả hoạt động sự nghiệp; hệ thống các tiêu chí này cần xây
dựng ở các cơ quan quản lý và ở các đơn vị sự nghiệp thực hiện nhiệm vụ.
- Tổ chức hệ thống kiểm tra, giám sát: việc này được thực hiện thường xuyên,
đồng thời ở cả hai cấp độ: đánh giá từ bên trong (tự đánh giá của đơn vị, nội bộ
ngành, địa phương) và đánh