Trong những năm qua, cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ tài
chính rất quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Thu ngân
sách không chỉ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn là công cụ hữu
hiệu để điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế. Những năm gần đây, thu NSNN hàng
năm liên tục gia tăng, chiếm trên 20% GDP. Thu NSNN liên quan đến rất nhiều
ngành, lĩnh vực, đối tượng khác nhau.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, NSNN còn bội chi; hơn nữa, nhiệm
vụ trong giai đoạn tới cũng rất nặng nề, cụ thể: yêu cầu kết quả thu NSNN giai
đoạn 2006-2010 đạt tổng thu khoảng 1.500 nghìn tỷ đồng (tăng 90% so với giai
đoạn 2001 - 2005), tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN khoảng 21 - 22% GDP,
trong đó, động viên từ thuế, phí là 20- 21% GDP. Để đạt được mục tiêu đó, việc
huy động các nguồn lực đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho phát triển có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng. Và đáng chú ý là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
1997, nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ổn định và luôn trong tình trạng cạnh
tranh quyết liệt, cho nên việc gia tăng huy động nguồn vốn trong nước, trong đó
đầu tư từ NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, có tầm quan
trọng sống còn.
Hiện nay, công tác quản lý thu NSNN vẫn còn nhiều hạn chế như: chính
sách chế độ chưa đồng bộ, qui trình lập dự toán còn cồng kềnh, tổ chức thu còn
do nhiều cơ quan thực hiện; quản lý thu còn thiếu thống nhất; các phương thức
thu còn nghèo nàn, chưa khai thác tốt những thành tựu công nghệ thông tin vào
quản lý thu. nên còn gây khó khăn cho người nộp. Những bất cập này đã tác
động không nhỏ đến việc thu và quản lý nguồn thu NSNN trong những năm vừa
qua.
Điều rõ ràng là, từ yêu cầu gia tăng nguồn thu, trước yêu cầu của phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế trên đây đòi hỏi
phải tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra nhữngii
giải pháp hữu hiệu để tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN của chúng ta.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề "Đổi mới công tác quản lý
thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước" làm đề tài nghiên
cứu của Luận văn Thạc sĩ
22 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 518 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Đổi mới công tác quản lý thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ tài
chính rất quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Thu ngân
sách không chỉ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn là công cụ hữu
hiệu để điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế. Những năm gần đây, thu NSNN hàng
năm liên tục gia tăng, chiếm trên 20% GDP. Thu NSNN liên quan đến rất nhiều
ngành, lĩnh vực, đối tượng khác nhau.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, NSNN còn bội chi; hơn nữa, nhiệm
vụ trong giai đoạn tới cũng rất nặng nề, cụ thể: yêu cầu kết quả thu NSNN giai
đoạn 2006-2010 đạt tổng thu khoảng 1.500 nghìn tỷ đồng (tăng 90% so với giai
đoạn 2001 - 2005), tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN khoảng 21 - 22% GDP,
trong đó, động viên từ thuế, phí là 20- 21% GDP. Để đạt được mục tiêu đó, việc
huy động các nguồn lực đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho phát triển có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng. Và đáng chú ý là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
1997, nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ổn định và luôn trong tình trạng cạnh
tranh quyết liệt, cho nên việc gia tăng huy động nguồn vốn trong nước, trong đó
đầu tư từ NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, có tầm quan
trọng sống còn.
Hiện nay, công tác quản lý thu NSNN vẫn còn nhiều hạn chế như: chính
sách chế độ chưa đồng bộ, qui trình lập dự toán còn cồng kềnh, tổ chức thu còn
do nhiều cơ quan thực hiện; quản lý thu còn thiếu thống nhất; các phương thức
thu còn nghèo nàn, chưa khai thác tốt những thành tựu công nghệ thông tin vào
quản lý thu... nên còn gây khó khăn cho người nộp. Những bất cập này đã tác
động không nhỏ đến việc thu và quản lý nguồn thu NSNN trong những năm vừa
qua.
Điều rõ ràng là, từ yêu cầu gia tăng nguồn thu, trước yêu cầu của phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế trên đây đòi hỏi
phải tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra những
ii
giải pháp hữu hiệu để tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN của chúng ta.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề "Đổi mới công tác quản lý
thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước" làm đề tài nghiên
cứu của Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi Luật NSNN (1996) được ban hành, công tác quản lý thu NSNN
được chuyển đổi theo Luật NSNN (1996), đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến quản lý thu NSNN. Có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có
liên quan như:
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tập trung, quản lý các khoản
thu NSNN và kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành của TS. Nguyễn Thanh
Dương, Kho bạc Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành tháng 3 năm
2001. Đề tài đã đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm hướng đến hoàn
thiện cơ chế quản lý quỹ NSNN trên địa bàn và quỹ NSNN nói chung cho phù
hợp với yêu cầu thực tiễn.
- Hoàn thiện quản lý thu NSNN qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn thành
phố Hà Nội - Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Đặng Văn Hiền - năm 2004. Luận văn
đã làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp để quản lý tốt nguồn thu NSNN trên
địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, đề tài cũng mới chỉ khảo sát trên địa bàn Hà
Nội, chưa có phân tích, đánh giá một cách tổng thể trên bình diện cả nước, chưa có
sự so sánh cần thiết giữa các địa phương, khu vực để rút ra những đặc điểm chung
làm cơ sở đề xuất các giải pháp toàn diện.
- Vận dụng phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản
lý, chi tiêu công của Việt Nam, Sách chuyên khảo của TS. Sử Đình Thành -
Khoa Tài chính Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - Nxb Tài
chính ấn hành 2005. Cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin qua các giai đoạn về
quá trình quản lý, lập ngân sách và giới thiệu phương thức lập ngân sách theo
kết quả đầu ra tại Việt Nam. Tuy nhiên chưa đề cập một cách chuyên sâu đối với
lĩnh vực thu NSNN.
iii
Ngoài ra, còn một số công trình, bài báo bàn đến những khía cạnh riêng
của quản lý thu NSNN.
Tóm lại, phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đều tập
trung làm rõ quản lý NSNN nói chung và tại một số địa phương hoặc đề cập đến
một phần của công tác quản lý thu NSNN. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ và hệ thống về quản lý thu NSNN qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước. Vì lý do đó tác giả đã lựa chọn đề tài trên với hy vọng có cái nhìn xác thực,
hệ thống trên bình diện cả nước về công tác quản lý thu ngân sách ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Tìm những giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý thu nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam, góp phần thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời các khoản thu vào NSNN, đồng thời tăng cường bồi dưỡng
nguồn thu cho NSNN để phục vụ cho các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nói trên, các nhiệm vụ cần thực hiện là:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN.
- Đánh giá thực trạng quản lý thu NSNN ở Việt Nam thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn quản lý thu NSNN ở
Việt Nam. Trong khi nghiên cứu, phân tích, luận văn sẽ khảo sát trên bình diện
quốc gia và có phân tích sâu ở một số lĩnh vực như theo sắc thuế, khu vực kinh
tế, địa phương và so sánh với quản lý thu ngân sách ở một số quốc gia trên thế
giới. Trong các nguồn thu của NSNN, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu
nguồn thu từ thuế và phân tích sâu vai trò của Kho bạc Nhà nước (KBNN) trong
công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng thu NSNN ở Việt
Nam trong những năm gần đây. Về thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn
gần mười năm trở lại đây - từ khi có Luật NSNN, tất nhiên để có cái nhìn chiều
sâu, trong khi phân tích tác giả sẽ so sánh với các giai đoạn trước.
5. Phương pháp nghiên cứu
iv
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích
kinh tế nhằm tìm ra những căn cứ, số liệu minh họa cho các luận điểm, đồng
thời góp phần dự đoán cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng
phương pháp phân kỳ, so sánh nhằm tìm ra những nét đặc thù của các giai đoạn
khác nhau.
6. Những đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề chung như khái
niệm, đặc điểm và vai trò của thu NSNN, các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thu
NSNN.
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng công
tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam và chỉ rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý thu NSNN của nước ta thời gian qua.
Thứ ba: Đề xuất được các giải pháp có tính khả thi, tiếp tục đổi mới
công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam tập trung vào 4 nhóm cơ bản là: Các
giải pháp về cơ chế chính sách; giải pháp về qui trình, thủ tục nghiệp vụ; giải
pháp về tổ chức, quản lý và một số giải pháp hỗ trợ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý thu NSNN qua hệ thống
Kho bạc Nhà nước.
Chương 2: Thực trạng quản lý thu NSNN qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước.
Chương 3: Giải pháp đổi mới công tác quản lý thu NSNN qua hệ thống
Kho bạc Nhà nước.
nội dung cơ bản của luận văn
Chương 1
Những vấn đề chung về quản lý thu Ngân sách
nhà nước qua hệ thống Kho bạc nhà nước
v
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý thu ngân sách nhà nước
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát
triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa -
tiền tệ trong các phương thức sản xuất của các cộng đồng và Nhà nước của từng
cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng
hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của NSNN.
Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để
duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có nguồn
lực tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ thuế, bắt
công dân phải đóng góp để chi tiêu cho bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát...
NSNN đã có quá trình ra đời và hình thành suốt từ thế kỷ XII đến thế kỷ
XVIII. Cho đến nay, các nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử dụng NSNN,
thuật ngữ NSNN được sử dụng khá phổ biến ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, khái niệm NSNN do xuất phát từ cách nhìn nhận khác nhau nên cũng
chưa có sự thống nhất. Song tựu chung có thể nêu khái quát như sau: NSNN được
đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo
lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng
của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối
các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu.
1.1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
NSNN là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. NSNN bao
gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính của
quốc gia như quan hệ với dân cư, các thành phần kinh tế, các quỹ tài chính và
các nước.
1.1.2. Thu ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
vi
Thu NSNN là một trong hai nội dung hoạt động cơ bản của NSNN (thu
và chi). Đó là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để
động viên, phân phối một bộ phận của cải của xã hội dưới dạng tiền tệ về tay
Nhà nước, hình thành nên quỹ NSNN.
1.1.2.2. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN phản ánh các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân
chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội, có
phạm vi rộng, liên quan đến hầu hết các đối tượng trong xã hội, được thực hiện với
nhiều phương thức khác nhau như: Tự nguyện - bắt buộc; ngang giá - không ngang
giá; có đối khoản - không có đối khoản trực tiếp; kinh tế - phi kinh tế... Trong đó,
bắt buộc, không ngang giá, không có đối khoản trực tiếp, phi kinh tế... là rất phổ
biến. Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù
giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập... Sự vận động của các phạm trù đó vừa tác
động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của
các công cụ thu NSNN.
1.1.2.3. Nội dung thu ngân sách nhà nước
Nguồn thu của NSNN là tất cả các nguồn tài chính hình thành trong quá
trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cả trong và ngoài nước có khả
năng động viên vào NSNN để hình thành quỹ NSNN. Chủ yếu bao gồm các khoản
theo 4 nhóm lớn: Thu nội địa; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu; thu từ dầu thô
(đối với các nước có dầu thô) và thu từ vay nợ, viện trợ.
1.1.2.4. Vai trò của thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN động viên và tập trung các nguồn tài chính cần thiết để tạo
lập quỹ NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu đã được dự tính cho từng giai đoạn
phát triển của Nhà nước, là công cụ điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế và thông
qua thu NSNN, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với toàn
bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội.
Để phát huy vai trò tích cực của thu NSNN trong thực tế thì một trong
những vấn đề quan trọng là thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Muốn vậy, phải xác
định đúng đắn nguồn thu và không ngừng bồi dưỡng nguồn thu.
vii
1.1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Thu nhập GDP bình quân đầu người, tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế,
khả năng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản, mức độ trang trải các khoản chi phí
của Nhà nước, tổ chức bộ máy thu nộp. Trong đó, tỷ suất thu NSNN được xem
là hạt nhân cơ bản của chính sách thu nên cần phải được nghiên cứu, xem xét
trên nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội.
1.1.3. Quản lý thu ngân sách nhà nước
1.1.3.1.Khái niệm, đặc điểm của quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng hệ
thống các phương pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, tiếp cận
đến mục tiêu cuối cùng, phục vụ cho mục đích của con người. Với ý nghĩa như
vậy, có thể khái quát: Quản lý thu NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các
quy luật khách quan; sử dụng hệ thống các phương pháp tác động đến các hoạt
động thu NSNN nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà
Nhà nước phải đảm nhận.
Đối tượng tác động của quản lý thu NSNN là toàn bộ các khoản thu được
lập kế hoạch trong dự toán NSNN năm nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Quản lý thu
NSNN là sự liên kết hữu cơ giữa Nhà nước với tư cách chủ thể quản lý với khách
thể quản lý (các tầng lớp dân cư, thành phần kinh tế trong xã hội) và đối tượng
quản lý (các khoản thu NSNN). Tác động của quản lý thu NSNN mang tính tổng
hợp, hệ thống gồm nhiều biện pháp khác nhau được biểu hiện dưới dạng cơ chế
quản lý. Cơ sở của quản lý thu NSNN là sự vận dụng các quy luật kinh tế - xã hội
phù hợp với thực tiễn khách quan. Mục tiêu cơ bản của quản lý thu NSNN là các
khoản thu NSNN phải được tập trung đúng, đầy đủ, kịp thời và được phân chia
chính xác cho các cấp NSNN.
Quản lý thu NSNN có các đặc điểm sau: thu NSNN được quản lý bằng pháp
luật và theo dự toán. Mọi nhà nước đều quản lý thu NSNN bằng luật; quản lý thu
NSNN sử dụng một hệ thống tổng hợp các biện pháp nhưng biện pháp quan trọng
nhất là biện pháp tổ chức - hành chính. Đặc trưng của phương pháp quản lý hành
viii
chính là cưỡng chế đơn phương của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý bằng
việc Nhà nước thống nhất tập trung việc ban hành cơ chế, chính sách về quản lý thu
từ khâu lập, chấp hành, kế toán và quyết toán thu NSNN.
1.1.3.2. Hình thành thể chế quản lý thu ngân sách nhà nước
Thể chế quản lý thu NSNN là những quy định, chuẩn mực làm cơ sở
pháp lý cho việc thu NSNN và quản lý thu NSNN. Thể chế quản lý thu NSNN
bao gồm từ Hiến pháp, các bộ luật, các văn bản dưới luật và các quy định khác
của Nhà nước về thu NSNN. Trong đó, các bộ luật điều chỉnh thu NSNN như
Luật NSNN, các luật thuế và các luật khác liên quan tới thu NSNN có ý nghĩa
rất quan trọng.
Những nội dung cơ bản trong các luật và văn bản pháp luật về thu
NSNN và quản lý thu NSNN rất đa dạng, phức tạp, nhưng trong đó bao gồm
một số vấn đề cơ bản như: định rõ nguyên tắc thu; cơ chế, chính sách thu
NSNN; phân cấp nguồn thu; quy trình thu NSNN; xây dựng các khung định
mức thu v.v... Một số nội dung cơ bản trong thể chế quản lý thu NSNN là: Các
nguyên tắc trong chính sách thu, xây dựng các khoản mục và bồi dưỡng nguồn thu
NSNN, tỷ lệ phân chia các khoản thu NSNN.
1.1.3.3. Phân cấp quản lý thu ngân sách nhà nước
Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau
trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách. Thực chất
của việc phân cấp thu NSNN là giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền
nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các
vấn đề của hoạt động thu NSNN.
1.1.3.4. Tổ chức bộ máy quản lý thu ngân sách nhà nước
Tổ chức bộ máy quản lý thu NSNN cùng với tổ chức hành thu là hai nội
dung chủ yếu của việc tổ chức quản lý thu NSNN. Tổ chức bộ máy quản lý thu bao
gồm việc hình thành cơ cấu tổ chức và quy định rõ chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu tổ
chức quản lý thu NSNN được hình thành từ trung ương đến địa phương hợp
thành hệ thống thu thống nhất, từ chính quyền đến các cơ quan thu chuyên
ngành. Mỗi cấp quản lý có chức năng, nhiệm vụ riêng và được pháp luật quy
ix
định theo đặc điểm từng quốc gia trong suốt chu trình ngân sách từ khâu lập,
chấp hành đến quyết toán thu NSNN.
1.1.3.5. Qui trình quản lý thu ngân sách nhà nước
Qui trình quản lý thu NSNN gắn liền với quản lý chu trình NSNN được
thực hiện bằng công cụ kế hoạch thông qua 3 khâu chủ yếu là: Lập NSNN, chấp
hành NSNN và quyết toán NSNN.
1.1.3.6. Những yêu cầu của quản lý thu ngân sách nhà nước
Quản lý thu NSNN phải đáp ứng các yêu cầu: thu đúng, thu đủ và phân
chia chính xác các khoản thu NSNN cho từng cấp NSNN theo quy định của pháp
luật; đảm bảo thủ tục đơn giản, nhanh chóng, chính xác; đảm bảo hiệu quả và hiệu
lực cao, thể hiện qua kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra.
1.2. Kinh nghiệm quản lý thu ngân sách nhà nước ở một số nước
trên thế giới
1.2.1. Kinh nghiệm của Trung quốc
Trung Quốc là nước được đánh giá là có nền kinh tế đang chuyển đổi và
có tỉ lệ tăng trưởng GDP trong những năm vừa qua cao nhất thế giới. Sự tăng
trưởng này là điều kiện cho việc tăng thu ngân sách quốc gia. Trong công tác
quản lý tài chính, NSNN nói chung cũng như quản lý thu NSNN nói riêng: việc
cải cách các cơ quan tài chính và thuế vụ của Trung Quốc được tiến hành đồng
thời với cải cách thể chế tài chính dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường được áp
dụng rộng rãi trên thế giới và lý luận về tài chính công cộng. Việc phân cấp giữa
chính quyền Trung ương và địa phương được mở rộng và có đặc sắc Trung
Quốc, hệ thống giám sát tài chính hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hệ thống
luật bao gồm: Hiến pháp, Luật kiểm toán Nhà nước. Tăng cường cải cách hành
chính, quản lý nhà nước bằng pháp luật, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn
của các cấp trong quản lý tài chính và thu NSNN là đặc điểm cơ bản nhất của
Trung Quốc.
1.2.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp
Kể từ năm 1982, sau khi Luật về "Quyền hạn và tính tự chủ của các cấp xã,
tỉnh, vùng" ra đời đã cho phép các cấp chính quyền địa phương có tư cách pháp
x
nhân riêng, tách biệt với tư cách pháp nhân của Nhà nước. Ngân sách của Cộng hòa
Pháp được phân thành 4 cấp phù hợp với cơ cấu tổ chức hành chính là: ngân sách
nhà nước (NSTW), ngân sách vùng, ngân sách tỉnh và ngân sách xã. Tuy các cấp
ngân sách có tính độc lập tương đối nhưng về giác độ quản lý thu đều phải chấp
hành một cơ chế thống nhất theo quy định của luật.
Thực hiện nghiệp vụ thu gồm "người chuẩn thu" và "kế toán viên " hay còn
gọi là "kế toán viên kho bạc", những chức danh này được giao trách nhiệm và
quyền hạn rất rõ ràng. Quản lý thu NSNN của Pháp bao gồm trình tự đã được nêu
trong Luật NSNN. Qui trình chung về thu (lập số thu, chấp hành thu, kiểm tra và
quyết toán thu NSNN); ngoài ra, còn có qui định cho các trường hợp ngoại lệ.
1.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Năm 1996, Hàn Quốc được kết nạp vào tổ chức hợp tác kinh tế và phát
triển OECD và xếp loại thứ 15 trên thế giới về chất lượng cuộc sống. Trong lĩnh
vực quản lý NSNN, Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Tài chính và kinh tế là cơ
quan giúp Chính phủ đưa ra dự báo về thu ngân sách. Học viện Tài chính công
Hàn Quốc là đơn vị không thuộc Nhà nước nhưng được Chính phủ hợp đồng
đưa ra các số liệu dự báo thu và là cơ quan đối trọng với Bộ Tài chính và kinh tế
trong việc đưa ra dự báo thu hàng năm. Chính phủ Hàn Quốc đã có phân cấp lớn
trong lĩnh vực thu NSNN nhưng trên thực tế, việc thực hiện các quyền chủ động
của địa phương chưa cao.
Tóm lại, trên cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN và những nghiên cứu,
phân tích kinh nghiệm quản lý thu NSNN của các nước, một số nội dung có ý
nghĩa tham khảo, có thể vận dụng vào quản lý thu NSNN của Việt Nam là:
Một là, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, nâng cao hiệu quả
quản lý thu NSNN là một yêu cầu lớn của cải cách hành chính nhà nước nói
chung và cải cách tài chính ở nước ta nói riêng và phải thể chế hóa thành Luật.
Hai là, nhận thức, vận dụng kinh n