Tóm tắt Luận văn Đổi mới công tác quản lý thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước

Trong những năm qua, cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ tài chính rất quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Thu ngân sách không chỉ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn là công cụ hữu hiệu để điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế. Những năm gần đây, thu NSNN hàng năm liên tục gia tăng, chiếm trên 20% GDP. Thu NSNN liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, NSNN còn bội chi; hơn nữa, nhiệm vụ trong giai đoạn tới cũng rất nặng nề, cụ thể: yêu cầu kết quả thu NSNN giai đoạn 2006-2010 đạt tổng thu khoảng 1.500 nghìn tỷ đồng (tăng 90% so với giai đoạn 2001 - 2005), tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN khoảng 21 - 22% GDP, trong đó, động viên từ thuế, phí là 20- 21% GDP. Để đạt được mục tiêu đó, việc huy động các nguồn lực đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Và đáng chú ý là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997, nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ổn định và luôn trong tình trạng cạnh tranh quyết liệt, cho nên việc gia tăng huy động nguồn vốn trong nước, trong đó đầu tư từ NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, có tầm quan trọng sống còn. Hiện nay, công tác quản lý thu NSNN vẫn còn nhiều hạn chế như: chính sách chế độ chưa đồng bộ, qui trình lập dự toán còn cồng kềnh, tổ chức thu còn do nhiều cơ quan thực hiện; quản lý thu còn thiếu thống nhất; các phương thức thu còn nghèo nàn, chưa khai thác tốt những thành tựu công nghệ thông tin vào quản lý thu. nên còn gây khó khăn cho người nộp. Những bất cập này đã tác động không nhỏ đến việc thu và quản lý nguồn thu NSNN trong những năm vừa qua. Điều rõ ràng là, từ yêu cầu gia tăng nguồn thu, trước yêu cầu của phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế trên đây đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra nhữngii giải pháp hữu hiệu để tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN của chúng ta. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề "Đổi mới công tác quản lý thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước" làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ

pdf22 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Đổi mới công tác quản lý thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân sách nhà nước (NSNN) đã trở thành công cụ tài chính rất quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Thu ngân sách không chỉ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn là công cụ hữu hiệu để điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế. Những năm gần đây, thu NSNN hàng năm liên tục gia tăng, chiếm trên 20% GDP. Thu NSNN liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, đối tượng khác nhau. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, NSNN còn bội chi; hơn nữa, nhiệm vụ trong giai đoạn tới cũng rất nặng nề, cụ thể: yêu cầu kết quả thu NSNN giai đoạn 2006-2010 đạt tổng thu khoảng 1.500 nghìn tỷ đồng (tăng 90% so với giai đoạn 2001 - 2005), tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN khoảng 21 - 22% GDP, trong đó, động viên từ thuế, phí là 20- 21% GDP. Để đạt được mục tiêu đó, việc huy động các nguồn lực đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Và đáng chú ý là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997, nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ổn định và luôn trong tình trạng cạnh tranh quyết liệt, cho nên việc gia tăng huy động nguồn vốn trong nước, trong đó đầu tư từ NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, có tầm quan trọng sống còn. Hiện nay, công tác quản lý thu NSNN vẫn còn nhiều hạn chế như: chính sách chế độ chưa đồng bộ, qui trình lập dự toán còn cồng kềnh, tổ chức thu còn do nhiều cơ quan thực hiện; quản lý thu còn thiếu thống nhất; các phương thức thu còn nghèo nàn, chưa khai thác tốt những thành tựu công nghệ thông tin vào quản lý thu... nên còn gây khó khăn cho người nộp. Những bất cập này đã tác động không nhỏ đến việc thu và quản lý nguồn thu NSNN trong những năm vừa qua. Điều rõ ràng là, từ yêu cầu gia tăng nguồn thu, trước yêu cầu của phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế trên đây đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra những ii giải pháp hữu hiệu để tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN của chúng ta. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề "Đổi mới công tác quản lý thu ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc Nhà nước" làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Từ khi Luật NSNN (1996) được ban hành, công tác quản lý thu NSNN được chuyển đổi theo Luật NSNN (1996), đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý thu NSNN. Có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan như: - Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tập trung, quản lý các khoản thu NSNN và kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành của TS. Nguyễn Thanh Dương, Kho bạc Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành tháng 3 năm 2001. Đề tài đã đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm hướng đến hoàn thiện cơ chế quản lý quỹ NSNN trên địa bàn và quỹ NSNN nói chung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. - Hoàn thiện quản lý thu NSNN qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn thành phố Hà Nội - Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Đặng Văn Hiền - năm 2004. Luận văn đã làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp để quản lý tốt nguồn thu NSNN trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, đề tài cũng mới chỉ khảo sát trên địa bàn Hà Nội, chưa có phân tích, đánh giá một cách tổng thể trên bình diện cả nước, chưa có sự so sánh cần thiết giữa các địa phương, khu vực để rút ra những đặc điểm chung làm cơ sở đề xuất các giải pháp toàn diện. - Vận dụng phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản lý, chi tiêu công của Việt Nam, Sách chuyên khảo của TS. Sử Đình Thành - Khoa Tài chính Nhà nước, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - Nxb Tài chính ấn hành 2005. Cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin qua các giai đoạn về quá trình quản lý, lập ngân sách và giới thiệu phương thức lập ngân sách theo kết quả đầu ra tại Việt Nam. Tuy nhiên chưa đề cập một cách chuyên sâu đối với lĩnh vực thu NSNN. iii Ngoài ra, còn một số công trình, bài báo bàn đến những khía cạnh riêng của quản lý thu NSNN. Tóm lại, phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đều tập trung làm rõ quản lý NSNN nói chung và tại một số địa phương hoặc đề cập đến một phần của công tác quản lý thu NSNN. Hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về quản lý thu NSNN qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Vì lý do đó tác giả đã lựa chọn đề tài trên với hy vọng có cái nhìn xác thực, hệ thống trên bình diện cả nước về công tác quản lý thu ngân sách ở Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: Tìm những giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý thu nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam, góp phần thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các khoản thu vào NSNN, đồng thời tăng cường bồi dưỡng nguồn thu cho NSNN để phục vụ cho các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nói trên, các nhiệm vụ cần thực hiện là: - Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN. - Đánh giá thực trạng quản lý thu NSNN ở Việt Nam thời gian qua. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt Nam 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn quản lý thu NSNN ở Việt Nam. Trong khi nghiên cứu, phân tích, luận văn sẽ khảo sát trên bình diện quốc gia và có phân tích sâu ở một số lĩnh vực như theo sắc thuế, khu vực kinh tế, địa phương và so sánh với quản lý thu ngân sách ở một số quốc gia trên thế giới. Trong các nguồn thu của NSNN, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu nguồn thu từ thuế và phân tích sâu vai trò của Kho bạc Nhà nước (KBNN) trong công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng thu NSNN ở Việt Nam trong những năm gần đây. Về thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn gần mười năm trở lại đây - từ khi có Luật NSNN, tất nhiên để có cái nhìn chiều sâu, trong khi phân tích tác giả sẽ so sánh với các giai đoạn trước. 5. Phương pháp nghiên cứu iv Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích kinh tế nhằm tìm ra những căn cứ, số liệu minh họa cho các luận điểm, đồng thời góp phần dự đoán cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp phân kỳ, so sánh nhằm tìm ra những nét đặc thù của các giai đoạn khác nhau. 6. Những đóng góp của luận văn Thứ nhất: Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề chung như khái niệm, đặc điểm và vai trò của thu NSNN, các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thu NSNN. Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam và chỉ rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý thu NSNN của nước ta thời gian qua. Thứ ba: Đề xuất được các giải pháp có tính khả thi, tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam tập trung vào 4 nhóm cơ bản là: Các giải pháp về cơ chế chính sách; giải pháp về qui trình, thủ tục nghiệp vụ; giải pháp về tổ chức, quản lý và một số giải pháp hỗ trợ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được bố cục thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý thu NSNN qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Chương 2: Thực trạng quản lý thu NSNN qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Chương 3: Giải pháp đổi mới công tác quản lý thu NSNN qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. nội dung cơ bản của luận văn Chương 1 Những vấn đề chung về quản lý thu Ngân sách nhà nước qua hệ thống Kho bạc nhà nước v 1.1. Cơ sở lý luận về quản lý thu ngân sách nhà nước 1.1.1. Ngân sách nhà nước 1.1.1.1. Khái niệm ngân sách nhà nước NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của các cộng đồng và Nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của NSNN. Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ thuế, bắt công dân phải đóng góp để chi tiêu cho bộ máy nhà nước, quân đội, cảnh sát... NSNN đã có quá trình ra đời và hình thành suốt từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVIII. Cho đến nay, các nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử dụng NSNN, thuật ngữ NSNN được sử dụng khá phổ biến ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, khái niệm NSNN do xuất phát từ cách nhìn nhận khác nhau nên cũng chưa có sự thống nhất. Song tựu chung có thể nêu khái quát như sau: NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. 1.1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước NSNN là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. NSNN bao gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính của quốc gia như quan hệ với dân cư, các thành phần kinh tế, các quỹ tài chính và các nước. 1.1.2. Thu ngân sách nhà nước 1.1.2.1. Khái niệm thu ngân sách nhà nước vi Thu NSNN là một trong hai nội dung hoạt động cơ bản của NSNN (thu và chi). Đó là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để động viên, phân phối một bộ phận của cải của xã hội dưới dạng tiền tệ về tay Nhà nước, hình thành nên quỹ NSNN. 1.1.2.2. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước Thu NSNN phản ánh các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội, có phạm vi rộng, liên quan đến hầu hết các đối tượng trong xã hội, được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau như: Tự nguyện - bắt buộc; ngang giá - không ngang giá; có đối khoản - không có đối khoản trực tiếp; kinh tế - phi kinh tế... Trong đó, bắt buộc, không ngang giá, không có đối khoản trực tiếp, phi kinh tế... là rất phổ biến. Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập... Sự vận động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN. 1.1.2.3. Nội dung thu ngân sách nhà nước Nguồn thu của NSNN là tất cả các nguồn tài chính hình thành trong quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cả trong và ngoài nước có khả năng động viên vào NSNN để hình thành quỹ NSNN. Chủ yếu bao gồm các khoản theo 4 nhóm lớn: Thu nội địa; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu; thu từ dầu thô (đối với các nước có dầu thô) và thu từ vay nợ, viện trợ. 1.1.2.4. Vai trò của thu ngân sách nhà nước Thu NSNN động viên và tập trung các nguồn tài chính cần thiết để tạo lập quỹ NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu đã được dự tính cho từng giai đoạn phát triển của Nhà nước, là công cụ điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế và thông qua thu NSNN, thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Để phát huy vai trò tích cực của thu NSNN trong thực tế thì một trong những vấn đề quan trọng là thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Muốn vậy, phải xác định đúng đắn nguồn thu và không ngừng bồi dưỡng nguồn thu. vii 1.1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước Thu nhập GDP bình quân đầu người, tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế, khả năng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản, mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước, tổ chức bộ máy thu nộp. Trong đó, tỷ suất thu NSNN được xem là hạt nhân cơ bản của chính sách thu nên cần phải được nghiên cứu, xem xét trên nhiều khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội. 1.1.3. Quản lý thu ngân sách nhà nước 1.1.3.1.Khái niệm, đặc điểm của quản lý thu ngân sách nhà nước Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý bằng hệ thống các phương pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng quản lý, tiếp cận đến mục tiêu cuối cùng, phục vụ cho mục đích của con người. Với ý nghĩa như vậy, có thể khái quát: Quản lý thu NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các quy luật khách quan; sử dụng hệ thống các phương pháp tác động đến các hoạt động thu NSNN nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước phải đảm nhận. Đối tượng tác động của quản lý thu NSNN là toàn bộ các khoản thu được lập kế hoạch trong dự toán NSNN năm nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Quản lý thu NSNN là sự liên kết hữu cơ giữa Nhà nước với tư cách chủ thể quản lý với khách thể quản lý (các tầng lớp dân cư, thành phần kinh tế trong xã hội) và đối tượng quản lý (các khoản thu NSNN). Tác động của quản lý thu NSNN mang tính tổng hợp, hệ thống gồm nhiều biện pháp khác nhau được biểu hiện dưới dạng cơ chế quản lý. Cơ sở của quản lý thu NSNN là sự vận dụng các quy luật kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn khách quan. Mục tiêu cơ bản của quản lý thu NSNN là các khoản thu NSNN phải được tập trung đúng, đầy đủ, kịp thời và được phân chia chính xác cho các cấp NSNN. Quản lý thu NSNN có các đặc điểm sau: thu NSNN được quản lý bằng pháp luật và theo dự toán. Mọi nhà nước đều quản lý thu NSNN bằng luật; quản lý thu NSNN sử dụng một hệ thống tổng hợp các biện pháp nhưng biện pháp quan trọng nhất là biện pháp tổ chức - hành chính. Đặc trưng của phương pháp quản lý hành viii chính là cưỡng chế đơn phương của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý bằng việc Nhà nước thống nhất tập trung việc ban hành cơ chế, chính sách về quản lý thu từ khâu lập, chấp hành, kế toán và quyết toán thu NSNN. 1.1.3.2. Hình thành thể chế quản lý thu ngân sách nhà nước Thể chế quản lý thu NSNN là những quy định, chuẩn mực làm cơ sở pháp lý cho việc thu NSNN và quản lý thu NSNN. Thể chế quản lý thu NSNN bao gồm từ Hiến pháp, các bộ luật, các văn bản dưới luật và các quy định khác của Nhà nước về thu NSNN. Trong đó, các bộ luật điều chỉnh thu NSNN như Luật NSNN, các luật thuế và các luật khác liên quan tới thu NSNN có ý nghĩa rất quan trọng. Những nội dung cơ bản trong các luật và văn bản pháp luật về thu NSNN và quản lý thu NSNN rất đa dạng, phức tạp, nhưng trong đó bao gồm một số vấn đề cơ bản như: định rõ nguyên tắc thu; cơ chế, chính sách thu NSNN; phân cấp nguồn thu; quy trình thu NSNN; xây dựng các khung định mức thu v.v... Một số nội dung cơ bản trong thể chế quản lý thu NSNN là: Các nguyên tắc trong chính sách thu, xây dựng các khoản mục và bồi dưỡng nguồn thu NSNN, tỷ lệ phân chia các khoản thu NSNN. 1.1.3.3. Phân cấp quản lý thu ngân sách nhà nước Hệ thống NSNN là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách. Thực chất của việc phân cấp thu NSNN là giải quyết các mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước Trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề của hoạt động thu NSNN. 1.1.3.4. Tổ chức bộ máy quản lý thu ngân sách nhà nước Tổ chức bộ máy quản lý thu NSNN cùng với tổ chức hành thu là hai nội dung chủ yếu của việc tổ chức quản lý thu NSNN. Tổ chức bộ máy quản lý thu bao gồm việc hình thành cơ cấu tổ chức và quy định rõ chức năng, nhiệm vụ. Cơ cấu tổ chức quản lý thu NSNN được hình thành từ trung ương đến địa phương hợp thành hệ thống thu thống nhất, từ chính quyền đến các cơ quan thu chuyên ngành. Mỗi cấp quản lý có chức năng, nhiệm vụ riêng và được pháp luật quy ix định theo đặc điểm từng quốc gia trong suốt chu trình ngân sách từ khâu lập, chấp hành đến quyết toán thu NSNN. 1.1.3.5. Qui trình quản lý thu ngân sách nhà nước Qui trình quản lý thu NSNN gắn liền với quản lý chu trình NSNN được thực hiện bằng công cụ kế hoạch thông qua 3 khâu chủ yếu là: Lập NSNN, chấp hành NSNN và quyết toán NSNN. 1.1.3.6. Những yêu cầu của quản lý thu ngân sách nhà nước Quản lý thu NSNN phải đáp ứng các yêu cầu: thu đúng, thu đủ và phân chia chính xác các khoản thu NSNN cho từng cấp NSNN theo quy định của pháp luật; đảm bảo thủ tục đơn giản, nhanh chóng, chính xác; đảm bảo hiệu quả và hiệu lực cao, thể hiện qua kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra. 1.2. Kinh nghiệm quản lý thu ngân sách nhà nước ở một số nước trên thế giới 1.2.1. Kinh nghiệm của Trung quốc Trung Quốc là nước được đánh giá là có nền kinh tế đang chuyển đổi và có tỉ lệ tăng trưởng GDP trong những năm vừa qua cao nhất thế giới. Sự tăng trưởng này là điều kiện cho việc tăng thu ngân sách quốc gia. Trong công tác quản lý tài chính, NSNN nói chung cũng như quản lý thu NSNN nói riêng: việc cải cách các cơ quan tài chính và thuế vụ của Trung Quốc được tiến hành đồng thời với cải cách thể chế tài chính dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường được áp dụng rộng rãi trên thế giới và lý luận về tài chính công cộng. Việc phân cấp giữa chính quyền Trung ương và địa phương được mở rộng và có đặc sắc Trung Quốc, hệ thống giám sát tài chính hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở hệ thống luật bao gồm: Hiến pháp, Luật kiểm toán Nhà nước. Tăng cường cải cách hành chính, quản lý nhà nước bằng pháp luật, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp trong quản lý tài chính và thu NSNN là đặc điểm cơ bản nhất của Trung Quốc. 1.2.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp Kể từ năm 1982, sau khi Luật về "Quyền hạn và tính tự chủ của các cấp xã, tỉnh, vùng" ra đời đã cho phép các cấp chính quyền địa phương có tư cách pháp x nhân riêng, tách biệt với tư cách pháp nhân của Nhà nước. Ngân sách của Cộng hòa Pháp được phân thành 4 cấp phù hợp với cơ cấu tổ chức hành chính là: ngân sách nhà nước (NSTW), ngân sách vùng, ngân sách tỉnh và ngân sách xã. Tuy các cấp ngân sách có tính độc lập tương đối nhưng về giác độ quản lý thu đều phải chấp hành một cơ chế thống nhất theo quy định của luật. Thực hiện nghiệp vụ thu gồm "người chuẩn thu" và "kế toán viên " hay còn gọi là "kế toán viên kho bạc", những chức danh này được giao trách nhiệm và quyền hạn rất rõ ràng. Quản lý thu NSNN của Pháp bao gồm trình tự đã được nêu trong Luật NSNN. Qui trình chung về thu (lập số thu, chấp hành thu, kiểm tra và quyết toán thu NSNN); ngoài ra, còn có qui định cho các trường hợp ngoại lệ. 1.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Năm 1996, Hàn Quốc được kết nạp vào tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD và xếp loại thứ 15 trên thế giới về chất lượng cuộc sống. Trong lĩnh vực quản lý NSNN, Chính phủ giao nhiệm vụ cho Bộ Tài chính và kinh tế là cơ quan giúp Chính phủ đưa ra dự báo về thu ngân sách. Học viện Tài chính công Hàn Quốc là đơn vị không thuộc Nhà nước nhưng được Chính phủ hợp đồng đưa ra các số liệu dự báo thu và là cơ quan đối trọng với Bộ Tài chính và kinh tế trong việc đưa ra dự báo thu hàng năm. Chính phủ Hàn Quốc đã có phân cấp lớn trong lĩnh vực thu NSNN nhưng trên thực tế, việc thực hiện các quyền chủ động của địa phương chưa cao. Tóm lại, trên cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN và những nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm quản lý thu NSNN của các nước, một số nội dung có ý nghĩa tham khảo, có thể vận dụng vào quản lý thu NSNN của Việt Nam là: Một là, tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý thu NSNN là một yêu cầu lớn của cải cách hành chính nhà nước nói chung và cải cách tài chính ở nước ta nói riêng và phải thể chế hóa thành Luật. Hai là, nhận thức, vận dụng kinh n
Luận văn liên quan