Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện hệ thống và việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long

Kinh doanh ngân hàng là một hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro do những nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Trên thực tế không một ngân hàng nào tránh được rủi ro trong quá trình kinh doanh, những nguyên nhân khách quan như: khách hàng vay tiền bị phá sản, bão lụt, động đất, chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, tài chính trên thế giới, trong nước, những nguyên nhân chủ quan thường do nội bộ Ngân hàng gây ra như: không nắm đủ thông tin về thực trạng người vay tiền, trình độ hoặc đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên yếu kém, cho vay không có tài sản bảo đảm, giải ngân không đúng mục đích.Vì vậy, bất kỳ ngân hàng nào cũng cần xây dựng cho mình một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng nói chung và kiểm soát rủi ro tín dụng nói riêng, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Đảm bảo an toàn tín dụng là một trong những mục tiêu hàng đầu của các NHTM, do đó các quy định về kiểm soát rủi ro tín dụng tại các NHTM cần cụ thể và chặt chẽ đối với từng loại khách hàng. Lĩnh vực cho vay xây dựng và sửa chữa nhà ở có những rủi ro tín dụng riêng, cần có những quy định về kiểm soát rủi ro tín dụng phù hợp. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề trên, đề tài: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long” đã được lựa chọn để nghiên cứu làm Luận văn thạc sỹ kinh tế.

pdf11 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện hệ thống và việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i TÓM TẮT LUẬN VĂN Kinh doanh ngân hàng là một hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro do những nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Trên thực tế không một ngân hàng nào tránh được rủi ro trong quá trình kinh doanh, những nguyên nhân khách quan như: khách hàng vay tiền bị phá sản, bão lụt, động đất, chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, tài chính trên thế giới, trong nước, những nguyên nhân chủ quan thường do nội bộ Ngân hàng gây ra như: không nắm đủ thông tin về thực trạng người vay tiền, trình độ hoặc đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên yếu kém, cho vay không có tài sản bảo đảm, giải ngân không đúng mục đích....Vì vậy, bất kỳ ngân hàng nào cũng cần xây dựng cho mình một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng nói chung và kiểm soát rủi ro tín dụng nói riêng, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Đảm bảo an toàn tín dụng là một trong những mục tiêu hàng đầu của các NHTM, do đó các quy định về kiểm soát rủi ro tín dụng tại các NHTM cần cụ thể và chặt chẽ đối với từng loại khách hàng. Lĩnh vực cho vay xây dựng và sửa chữa nhà ở có những rủi ro tín dụng riêng, cần có những quy định về kiểm soát rủi ro tín dụng phù hợp. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề trên, đề tài: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long” đã được lựa chọn để nghiên cứu làm Luận văn thạc sỹ kinh tế. Mục đích nghiên cứu của Luận văn là mô tả, phân tích thực tiễn hệ thống KSNB với rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng, sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long. ii Đối tượng nghiên cứu là hệ thống kiểm soát nội bộ trong quan hệ với việc tăng cường công tác kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương: Chương 1: Lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ trong kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại các Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long. Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long Trong chương 1, Tác giả trình bày khái quát về hệ thống kiểm soát nội bộ trong các NHTM gồm đặc điểm, mục tiêu và các yếu tố cơ bản cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ trong các NHTM. Đồng thời tác giả trình bày sơ lược các hoạt động, các loại rủi ro gắn liền với các hoạt động kinh doanh Ngân hàng và đi sâu phân tích rủi ro tín dụng, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Đặc biệt, Tác giả đi sâu phân tích đặc điểm của các khoản tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở, từ đó phân tích hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở của các Ngân hàng thương mại, thể hiện qua các yếu tố của hệ thống kiểm soát nội bộ: Thứ nhất, môi trường kiểm soát (Đây là nền móng cho các yếu tố còn lại của hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm: cơ cấu tổ chức, chính sách nhân viên, công tác kế hoạch, Uỷ ban kiểm soát). Thứ hai, Hệ thống kế toán dùng để ghi nhận, tính toán, phân loại và kết chuyển vào sổ tổng hợp và lập báo cáo. Thứ ba, Thủ tục kiểm soát, đó là những cách thức giải pháp cụ thể trong quan hệ với trình tự xác định, nó đảm bảo các hành động cần thiết để quản lý các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thực hiện mục tiêu của Ngân hàng. Thủ tục kiểm soát trong hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng phải được thiết lập iii dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên tắc uỷ quyền, phê chuẩn. Thứ tư, Kiểm toán nội bộ là một hoạt động độc lập và khách quan được thành lập bên trong ngân hàng nhằm mang lại cho tổ chức sự đảm bảo về khả năng kiểm soát các hoạt động của ngân hàng, tư vấn cho ngân hàng các giải pháp chấn chỉnh hoạt động của mình, góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho ngân hàng. Là một nhân tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ, bộ phận KTNB cung cấp một sự quan sát đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của Ngân hàng, gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm soát nội bộ. KTNB thực hiện nhiệm vụ đánh giá tính hiệu lực, đầy đủ và tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Ngoài ra, Tác giả cũng trình bày khái quát quy trình tín dụng với việc kiểm tra, kiểm soát vốn vay được tiến hành theo ba bước: Thẩm định trước khi cho vay; kiểm tra, giám sát trong khi cho vay; kiểm tra, giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay. Trong Chương 2, Tác giả trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, tác giả tập trung phân tích thực trạng hệ thống kiểm soát nôi bộ trong mối quan hệ với kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng MHB. Xuất phát từ đặc điểm và những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng xây dựng xây dựng sửa chữa nhà ở tại MHB, Tác giả tìm hiểu môi trường kiểm soát, chính sách tín dụng, các thủ tục kiểm soát, bộ phận kiểm toán nội bộ và hệ thống kế toán trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng, qua đó chỉ ra những mặt đã đạt được và những hạn chế của hệ thống kiểm soát nội bộ với việc kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng MHB. Cụ thể là: Những mặt đạt được của hệ thống kiểm soát nội bộ với việc kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng MHB gồm: Thứ nhất, Về cơ cấu tổ chức: Với mục tiêu hướng tới một ngân hàng hiện đại, mô hình tổ chức hoạt động của chi nhánh đã từng bước được thay đổi căn bản về cơ cấu tổ chức nhằm hướng tới khách hàng, thúc đẩy và cải tiến dịch vụ khách hàng. Việc iv tạo lập cơ cấu tổ chức mới như thành lập ủy ban quản lý rủi ro, Hội đồng tín dụng, tại các chi nhánh bộ phận tín dụng được tách bách thành 3 phòng: Phòng kinh doanh, phòng quản lý rủi ro, phòng hỗ trợ kinh đã tạo ra sự tách bạch rõ ràng chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong hoạt động tín dụng giúp cho chi nhánh nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động, tăng khả năng kiểm soát và hạn chế rủi ro. Thứ hai, Về chính sách tín dụng: MHB đã sớm ban hành sổ tay tín dụng từ năm 2004 trong quyết định số 88/QĐ-NHN-HĐQT ngày 16/08/2004, trong đó quy định về chính sách tín dụng với định hướng tín dụng là đầu tư vào các sản phẩm tín dụng phục vụ nhà ở cho dân cư, hướng dẫn cụ thể quy trình cho vay .các quy định về thẩm quyền phê duyệt đã phần nào đảm bảo đưa hoạt động của MHB phát triển theo đúng định hướng, đạt được mục tiêu an toàn, hiệu quả và kiểm soát được rủi ro cũng như tiến dần đến thông lệ quốc tế Thứ ba, về Thủ tục kiểm soát trong hoạt động tín dụng được MHB quy định khá chặt chẽ, việc kiểm soát rủi ro đối với hoạt động tín dụng do hai bộ phận đảm nhận: Các kiểm soát viên nội bộ thực hiện kiểm tra kiểm soát ngay trong quá trình cho vay (do cán bộ tín dụng và các kiểm soát thực hiện) và kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ sau khi cho vay, thu hồi công nợ (do cán bộ kiểm tra nội bộ thực hiện). Cơ chế phân cấp ủy quyền phán quyết tín dụng được thiết kế khá chi tiết về đối tượng và mức được ủy quyền, đảm bảo tính rõ ràng, cụ thể trong triển khai tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng. Những hạn chế còn tồn tại của hệ thống kiểm soát với việc tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng MHB gồm: Thứ nhất, Về môi trường kiểm soát cũng có những hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và quản lý của MHB: Một là, việc phân quyền thành nhiều bộ phận trong hoạt động tín tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kiểm soát rủi ro tín dụng thể hiện ở việc kiểm soát hoạt động tín dụng rất chặt chẽ bao gồm cả kiểm tra - kiểm soát trong từng khâu của quy trình tín v dụng và cả KTNB kiểm tra từng chốt kiểm soát. Vì thế, rủi ro xảy ra đối với hoạt động tín dụng đã được hạn chế đáng kể nhưng nó cũng tạo ra mặt trái làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng kém linh động, kém cạnh tranh, ít nhiều cũng mất đi một số cơ hội trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hai là, Cơ cấu tổ chức quản lý của MHB hiện nay chưa bảo đảm cung cấp kịp thời thông tin cho ban lãnh đạo MHB nên dẫn đến ban lãnh đạo đưa ra quyết định chưa được xác thực và mang tính “cứng nhắc”. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tại các Chi nhánh chưa bảo đảm được yếu tố kiểm soát rủi ro đặc biệt là kiểm soát rủi ro tín dụng, chưa phân theo nhóm khách hàng. Ba là, Chính sách nhân sự, MHB đã xây dựng được đội ngũ nhân viên có ý thức phục vụ khách hàng, là người tư vấn tin cậy cho khách hàng. Tuy nhiên, MHB chưa xây dựng được đội ngũ nhân viên mang tính chuyên nghiệp cao. Thứ hai, về chính sách tín dụng: chính sách tín dụng áp dụng tại các chi nhánh, cụ thể tại chi nhánh Nghệ An mang tính cứng nhắc dựa trên cơ sở chấm điểm và phân loại khách hàng, chi nhánh áp dụng các chính sách tín dụng phù hợp theo quy định. Mọi hoạt động của MHB đều được thực hiện theo quy trình, tuy nhiên tại các chi nhánh nhiều lúc quy trình chỉ thực hiện theo hình thức làm tốn thời gian, công sức nhưng không mang lại hiệu quả thực sự. Thứ ba, về thủ tục kiểm soát, việc kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay vẫn còn sơ sài, qua loa và mang tính hình thức nên vẫn còn sai phạm trong quá trình cho vay, việc tuân thủ kỷ luật trong việc chấp hành cơ chế nghiệp vụ của cán bộ tham gia trong quy trình nghiệp vụ chưa nghiêm như thiếu hồ sơ về thủ tục vay vốn, chưa kiểm tra sử dụng vốn kịp thời, tài sản bảo đảm chưa bảo đảm tính pháp lý, gia hạn thiếu căn cứ.... Thứ tư, Ban KTNB chỉ tập trung kiểm toán các nghiệp vụ chủ yếu: Nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ kế toán - ngân quỹ. Ban KTNB chưa có các bộ phận kiểm toán chuyên ngành: Bộ phận Kiểm toán tín dụng, Bộ phận Kiểm toán kinh doanh ngoại hối, vi Bộ phận Kiểm toán Đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với hoạt động tín dụng kiểm toán viên nội bộ chưa thể hiện được vai trò quan trọng của mình là phát hiện các nguy cơ tiềm ẩn rủi ro từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa rủi ro, hiện nay kiểm toán viên nội bộ chỉ thực hiện việc kiểm tra lại (kiểm tra sau) các chốt kiểm soát thông qua kiểm tra một phần hoặc toàn bộ hồ sơ đã được phê duyệt, từ đó phát hiện sai sót và đưa ra biện pháp điều chỉnh nhưng biện pháp điều chỉnh chỉ mang tính cảm thông. Mặt khác, nhân viên KTNB chưa được đào tạo nhiều về nghiệp vụ kiểm toán, các báo cáo kiểm tra nội bộ đều thông qua ban giám đốc nên mất đi tính độc lập của phòng KTNB. Trong Chương 3, sau khi phân tích thực trạng hệ thống kiểm soát nôi bộ trong mối quan hệ với kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng MHB, tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng xây dựng và sửa chữa nhà ở tại Ngân hàng. Đó là: Thứ nhất, Hoàn thiện môi trường kiểm soát: Một là, Việc phân thành ba phòng trong hoạt động tín dụng đã giúp cho việc kiểm soát tín dụng được khách quan và chặt chẽ hơn. Tuy nhiên cũng đã làm cho hoạt động tín dụng kém linh hoạt. Để rút ngằn thời gian không cần thiết MHB nên giao quyền quyết định các khoản vay trong phạm vi phán quyết của giám đốc các đơn vị. Ngoài ra bộ phận kinh doanh hiện nay chưa chia thành các tổ để phục vụ các đối tượng khách hàng đặc thù khác nhau. Thiết nghĩ tại MHB đối tượng khách hàng vay phục vụ nhu cầu nhà ở chiếm tỷ trọng lớn nên MHB cần có tổ tín dụng nhà ở và tổ khách hàng doanh nghiệp, tổ khách hàng cá nhân. Hai là, Cơ cấu tổ chức quản lý, ban lãnh đạo MHB cần phải xây dựng một cơ cấu tổ chức phù hợp với quy mô và tính chất hoạt động của mình. MHB là ngân hàng hoạt động kinh doanh rộng khắp mọi miền của Tổ quốc từ Lào Cai đến đất mũi Cà Mau. Vì thế, nên phân công thêm chức năng nhiệm vụ cho Giám đốc các Khối. Giám đốc các Khối sẽ kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ Phó tổng giám đốc phụ trách các khu vực (miền) như Phó tổng giám đốc khu vực Miền Nam, Phó tổng giám đốc khu vực Miền vii Bắc, Phó tổng giám đốc khu vực Miền Trung Họ chịu trách nhiệm trước HĐQT và Tổng giám đốc về hoạt động kinh doanh của các khu vực, cung cấp kịp thời thông tin và hỗ trợ cho Tổng giám đốc việc điều hành kinh doanh của từng khu vực. Định kỳ, các Phó tổng giám đốc mỗi miền báo cáo tình hình kinh doanh của khu vực mình quản lý cho HĐQT và Tổng giám đốc; Đưa ra ý kiến, biện pháp quản lý nhằm kiểm soát rủi ro xảy ra đối với hoạt động kinh doanh và thúc đẩy hoạt động kinh doanh ở mỗi miền cùng nhau phát triển bền vững. Ba là, Chính sách nhân sự: MHB nên đào tạo thêm theo hướng chuyên sâu để nhân viên có một trình độ uyên thâm nhất định. Đặc biệt, đối với hoạt động tín dụng xây dựng sửa chữa nhà ở, MHB nên mở các khoá đào tạo về thẩm định cho nhân viên thẩm định, trang bị các kiến thức về xây dựng cơ bản và thị trường bất động sản. Bên cạnh việc đào tạo trình độ chuyên môn cho cán bộ tín dụng, MHB cần đào tạo về phẩm chất đạo đức cho nhân viên. Thứ hai, hoàn thiện chính sách tín dụng: Hiện tại MHB chỉ xây dựng chính sách tín dụng cho từng nhóm khách hàng chứ không có chính sách cụ thể cho từng đối tượng khách hàng và việc áp dụng chính sách tín dụng tại MHB cũng còn cứng nhắc. Điều đó dẫn đến việc kém cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của MHB với các NHTM khác. Mặt khác, không dễ tìm được một khách hàng mới giao dịch tín dụng lâu dài và có tiềm lực, do đó đối với khách hàng đã từng có quan hệ tín dụng tốt hoặc thuộc nhóm AA+, AA, AA- và BB+ thì nên áp dụng chính sách tín dụng cụ thể như ưu đãi về lãi suất, thời gian . nhằm tạo mối quan hệ tín dụng lâu dài và đảm bảo năng lực cạnh tranh với các ngân hàng khác. Mặt khác, MHB cần tập trung vào đối tượng khách hàng là các hộ gia đình vay mục đích mua hoặc xây dựng sữa chữa nhà để sử dụng nhằm phân tán rủi ro tín dụng, thực tế cho thấy, nợ xấu thường phát sinh đối với các đối tượng vay để đầu cơ bất động sản, chứng khoán . Thứ ba, Hoàn thiện thủ tục kiểm soát. viii Một là, thiết kế các thủ tục kiểm soát hợp lý cần phải xem xét các yếu tố sau: Đánh giá rủi ro, quản lý giám sát khoản vay và lựa chọn các thủ tục kiểm soát phù hợp, việc lựa chon một thủ tục kiểm soát phải đảm bảo tất cả các nghiệp vụ đều được lập chứng từ, ghi chép đầy đủ lên sổ sách và chỉ ghi chép những nghiệp vụ thực sự phát sinh và đồng thời quản lý được rủi ro. Hai là, nâng cao chất lượng thẩm định. Để nâng cao chất lượng thẩm định nhằm giảm thiểu rủi ro cần tổ chức thường xuyên các buổi thảo luận về thẩm định dự án, cần xem xét ý kiến thẩm định là ý kiến quyết định cho vay, đồng thời đào tạo được đội ngũ cán bộ thẩm định giỏi về chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt và có tầm nhìn xa. Thứ tư, Hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ. Công tác kiểm tra nội bộ trong hoạt động tín dụng là một công cụ vô cùng quan trọng, thông qua hoạt động kiểm tra có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Hiện nay, bộ phận kiểm tra nội bộ của chi nhánh vẫn theo mô hình chịu sử điều hành của Ban Giám đốc chi nhánh do đó tính độc lập của bộ phận này chưa cao và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Để nâng cao vai trò của hệ thống kiểm tra nội bộ cần phải tiến hành cơ cấu lại bộ phận này trực thuộc HĐQT của MHB, không thành lập phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại chi nhánh, việc kiểm tra tại chi nhánh giao cho Ban Kiểm tra -KTNB của MHB. Ngoài ra, Ban kiểm tra-KTNB cần được phân thành các bộ phận kiểm toán như kiểm toán hoạt động tín dụng, kiểm toán hoạt động thanh toán quốc tế, kiểm toán tài chính.... Trên cơ sở các biện pháp đã đề xuất, Tác giả đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước, Chính phủ và các bộ ngành liên quan, với NHNN và Ngân hàng MHB. * Đối với quản lý vĩ mô Một là, Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý của NHNN liên quan đến việc tạo ra môi trường pháp lý cho hệ thống kiểm soát nội bộ. Hiện nay, hệ thống kiểm tra - kiểm soát nội bộ được quy định tại các Điều 38, 41, 42, 43, 44 Luật các TCTD, chưa ix đề cập một cách đầy đủ, các khái niệm được sử dụng chưa có sự thống nhất, có sự đồng nhất về chức năng giữa bộ phận KTNB và bộ phận kiểm tra - kiểm soát nội bộ; KTNB chỉ được hiểu đơn thuần là kiểm toán báo cáo tài chínhVì vậy, NHNN cần có cơ chế để tách biệt hai bộ phận này. Bộ phận kiểm tra - kiểm soát nội bộ trực thuộc Tổng Giám đốc, bộ phận KTNB trực thuộc HĐQT. KTNB thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ. Hai là, Ngân hàng nhà nước cần phải giám sát việc tuân thủ cung cấp thông tin tín dụng của các ngân hàng thương mại. Thông tin về khách hàng tín dụng phát sinh tại các ngân hàng thương mại phải được cung cấp trung thực, nhanh chóng, kịp thời. Có chế tài xử lý các tổ chức vi phạm, vì đây là một trong những vấn đề mang lại rủi ro khá cao, tổn thất lớn cho các ngân hàng khi sử dụng thông tin khách hàng qua việc tra cứu từ trung tâm thông tin tín dụng. Tránh tình trạng ngân hàng này đẩy nợ xấu sang ngân hàng khác, chẳng hạn một khách hàng đang có dư nợ xấu tại ngân hàng A, ngân hàng A vì muốn thu hồi nợ nên đã để khách hàng này vào nhóm nợ tốt và gửi thông tin lên trung tâm thông tin tín dụng. Sau đó khách hàng này sang ngân hàng B vay để đáo nợ đã quá hạn ở ngân hàng A. Do tin tưởng vào những thông tin thu thập được từ trung tâm thông tin tín dụng nên ngân hàng B đã cấp tín dụng cho khách hàng chứa nhiều rủi ro. Ba là, Nhà nước cần phải sửa đổi để hoàn chỉnh các luật và văn bản dưới luật để tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động hiệu quả và an toàn hơn. Luật Đất đai cần quy định quyền hạn rõ ràng của Toà án hoặc các cơ quan có thẩm quyền phán quyết về giá trị của của giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất để tài sản thế chấp của khách hàng vay đối với ngân hàng được đảm bảo, Luật Doanh nghiệp nhà nước trong việc quy định tư cách pháp lý đối với từng loại hình doanh nghiệp, Luật Dân sự quy định về hộ gia đình để xác định cụ thể về điều kiện đất hộ gia đình cụ thể xác định cụ thể đối tượng thụ hưởng để tránh khó khăn cho ngân hàng khi có tranh chấp xảy ra x Bốn là, Ban hành quy định cụ thể về bảo hiểm cho hoạt động tín dụng, bảo hiểm có vị trí đặc biệt trong hệ thống quản lí rủi ro tín dụng của ngân hàng tạo sự ổn định chung cho nền kinh tế quốc dân. Cơ sở của bảo hiểm ngân hàng là các nghĩa vụ chi trả bảo hiểm cho các ngân hàng khi gặp sự cố rủi ro, lần đầu tiên được Hiệp hội các nhà bảo lãnh Mỹ đưa vào áp dụng đối với các ngân hàng Mỹ. Sau này, bảo hiểm ngân hàng được mô phỏng có tính đến pháp luật địa phương (và quá trình này đang tiếp tục diễn ra) để sử dụng ở nhiều nước, và hiện nay, nó đã trở thành phổ biến trên thế giới. Quản lí rủi ro tín dụng và bảo hiểm là các bộ phận không thể thiếu trong quan điểm an ninh kinh tế và ổn định kinh doanh. Bảo hiểm ngân hàng là một trong những sản phẩm chuẩn đối với các ngân hàng trên thị trường quốc tế. * Đối với Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông cửu long Thứ nhất, Đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm soát nội bộ với mục tiêu quan trọng xây dựng được hệ thống tìm kiếm những xu hướng tiềm ẩn tiêu cực, bất ổn và thiếu sót gây ra tổn thất cho hoạt động ngân hàng, từ đó hệ thống kiểm soát nội bộ giúp Ban lãnh đạo ngân hàng tìm ra được giải pháp ngăn ngừa tổn thất xảy ra. Khi xây dựng chiến lược hoạt động phát triển của ngân hàng thì Ban lãnh đạo cần phân tích, tính toán các điều kiện kinh tế vĩ mô, xu hướng phát triển của thị trường tài c
Luận văn liên quan