Dịch vụ kiểm toán của một công ty kiểm toán chuyên nghiệp là một
hoạt động sinh lời, là loại hoạt động kinh doanh. Với xu thế “hội nhập và
mở cửa” diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên khắp toàn cầu, là một công ty độc
lập, hoạt động trong lĩnh vực còn non trẻ tại Việt Nam, Công ty TNHH
Dịch vụ kiểm toán và tư vấn UHY đã và đang phải đối mặt với các đối thủ
hàng đầu thế giới trong lĩnh vực kiểm toán trong nước. Việc giữ được
khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới đòi hỏi công ty phải luôn gia
tăng các loại hình dịch vụ cung cấp cũng như gia tăng chất lượng của dịch
vụ.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, VT đóng vai trò là cầu
nối thông tin không thể thiếu giữa những vùng khác nhau, quốc gia khác
nhau trên thế giới. Các hãng VT gia nhập thị trường Việt Nam ngày càng
nhiều và đa dạng, do đó khách hàng VT là một trong những nhóm khách
hàng tiềm năng lớn. Công ty kiểm toán UHY đã và đang xâm nhập ngày
càng sâu vào nhóm khách hàng trong lĩnh vực này. Với những kinh nghiệm
đã tích luỹ được từ kiểm toán các công ty VT trong những năm qua, Công
ty kiểm toán UHY đang dần hoàn thiện hơn trong lĩnh vực kiểm toán các
khách hàng VT. Để duy trì và mở rộng thêm lượng khách hàng trong lĩnh
vực này, Côn g ty cần nâng cao uy tín với khách hàng, trong đó việc hoàn
thiện quy trình kiểm toán một cách chuyên nghiệp đóng một vai trò rất
quan trọng. Từ thực tế này, sau thời gian nghiên cứu và thực tế tham gia
các cuộc kiểm toán các khách hàng VT, tác giả chọn để tái “Hoàn thiện
kiểm toán Báo cáo tài chính của các công ty Viễn thông do Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Kiểm toán và Tư vấn UHY thực hiện” làm
đề tài cho Luận văn Thạc sỹ của mình. Tác giả nêu ra mục tiêu nghiên cứu ,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu rõ ràng để trình bày, đánh giá và hoànthiện quy trình kiểm toán BCTC các công ty VT do Công ty TNHH dịch vụ
Kiểm toán và Tư vấn UHY thực hiện
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Kiểm toán Báo cáo tài chính các
Công ty viễn thông
Chương 2: Thực trạng Kiểm toán Báo cáo tài chính các Công ty
Viễn thông tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Kiểm toán và Tư
vấn UHY
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện kiểm toán Báo cáo tài
chính các Công ty Viễn thông tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch
vụ Kiểm toán và Tư vấn UHY
12 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 611 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn - Hoàn thiện kiểm toán Báo cáo tài chính của các công ty Viễn thông do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Kiểm toán và Tư vấn UHY thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Dịch vụ kiểm toán của một công ty kiểm toán chuyên nghiệp là một
hoạt động sinh lời, là loại hoạt động kinh doanh. Với xu thế “hội nhập và
mở cửa” diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên khắp toàn cầu, là một công ty độc
lập, hoạt động trong lĩnh vực còn non trẻ tại Việt Nam, Công ty TNHH
Dịch vụ kiểm toán và tư vấn UHY đã và đang phải đối mặt với các đối thủ
hàng đầu thế giới trong lĩnh vực kiểm toán trong nước. Việc giữ được
khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới đòi hỏi công ty phải luôn gia
tăng các loại hình dịch vụ cung cấp cũng như gia tăng chất lượng của dịch
vụ.
Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay, VT đóng vai trò là cầu
nối thông tin không thể thiếu giữa những vùng khác nhau, quốc gia khác
nhau trên thế giới. Các hãng VT gia nhập thị trường Việt Nam ngày càng
nhiều và đa dạng, do đó khách hàng VT là một trong những nhóm khách
hàng tiềm năng lớn. Công ty kiểm toán UHY đã và đang xâm nhập ngày
càng sâu vào nhóm khách hàng trong lĩnh vực này. Với những kinh nghiệm
đã tích luỹ được từ kiểm toán các công ty VT trong những năm qua, Công
ty kiểm toán UHY đang dần hoàn thiện hơn trong lĩnh vực kiểm toán các
khách hàng VT. Để duy trì và mở rộng thêm lượng khách hàng trong lĩnh
vực này, Côn g ty cần nâng cao uy tín với khách hàng, trong đó việc hoàn
thiện quy trình kiểm toán một cách chuyên nghiệp đóng một vai trò rất
quan trọng. Từ thực tế này, sau thời gian nghiên cứu và thực tế tham gia
các cuộc kiểm toán các khách hàng VT, tác giả chọn để tái “Hoàn thiện
kiểm toán Báo cáo tài chính của các công ty Viễn thông do Công ty
Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Kiểm toán và Tư vấn UHY thực hiện” làm
đề tài cho Luận văn Thạc sỹ của mình. Tác giả nêu ra mục tiêu nghiên cứu ,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu rõ ràng để trình bày, đánh giá và hoàn
thiện quy trình kiểm toán BCTC các công ty VT do Công ty TNHH dịch vụ
Kiểm toán và Tư vấn UHY thực hiện
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về Kiểm toán Báo cáo tài chính các
Công ty viễn thông
Chương 2: Thực trạng Kiểm toán Báo cáo tài chính các Công ty
Viễn thông tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Kiểm toán và Tư
vấn UHY
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện kiểm toán Báo cáo tài
chính các Công ty Viễn thông tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch
vụ Kiểm toán và Tư vấn UHY
Trong chương 1, tác giả nêu được đặc điểm kinh doanh dịch vụ VT
tại Việt Nam và ảnh hưởng của nó tới công tác kiểm toán BCTC. Quá trì nh
sản xuất kinh doanh dịch vụ VT diễn ra trên phạm vi rộng với nhiều đơn vị
tham gia, hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ VT thường không giới
hạn bởi phạm vi địa lý mà phụ thuộc vào sự phân bố dân cư và nhu cầu trao
đổi thông tin, do đó, một cuộc kiểm toán các đơn vị VT thường có phạm vi
rất rộng, thời gian kéo dài và phải đầu tư khá nhiều nhân lực trong cùng
một lúc. Mỗi thành phần của mạng lưới VT với chức năng của mình
thường có thể tham gia vào việc tạo ra nhiều loại dịch vụ VT với sản lượng
khác nhau, tính đa sản phẩm có ở hầu hết các công đoạn trong dây chuyền
cung cấp dịch vụ VT, do đó KTV cần phải có hiểu biết chi tiết từng quy
trình hoạt động của mạng lưới, để từ đó ước tính và kiểm soát cách tính giá
thành sản phẩm dịch vụ của đơn vị một cách h iệu quả nhất. Sản phẩm dịch
vụ VT không có hình thái vật chất và thực chất nó là sự vận chuyển thông
tin từ nơi này đến nơi khác bằng các vật đưa tin như dòng điện, sóng điện
từ, sóng ánh sáng, để đánh giá chất lượng sản phẩm, KTV hoàn toàn phải
dựa vào hiểu biết thực tế, các thông tin xã hội, hoặc thực tế sử dụng, mà
không thể thực hiện kiểm kê vật chất như đối với các sản phẩm thông
thường của các ngành khác. Trong quá trình khai thác dịch vụ VT, DT
thường chỉ xuất hiện ở công đoạn đầu hoặc công đoạn cuối trong khi chi
phí thì phát sinh tại tất cả các công đoạn tham gia vào quá trình sản xuất,
điều này rất dễ dẫn đến việc hạch toán không phù hợp giữa DT và chi phí
phát sinh trong cùng một kỳ kế toán. KTV cần phải lưu ý đặc điểm này khi
kiểm tra tính phù hợp giữa DT và chi phí trong BCKQKD của đơn vị. Xuất
phát từ các đặc điểm trên, đòi hỏi các KTV thực hiện kiểm toán các đơn vị
VT cần phải có cái nhìn tổng quát, xuyên suốt toàn bộ mạng lưới hoạt động
của đơn vị, đồng thời hiểu chi tiết từng bước hoạt động c ủa mạng lưới đó
để có thể đưa ra những kết luận phù hơp nhất.
Trong chương này, tác giả cũng đã nêu được lý luận về Kiểm toán
BCTC nói chung và Kiểm toán BCTC các Công ty VT nói riêng. Có rất
nhiều định nghĩa về kiểm toán, nhìn chung, Kiểm toán là xác minh và bày
tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống
phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ
do các KTV có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ
thống pháp lý có hiệu lực . Kiểm toán BCTC nói chung và kiểm toán
BCTC các công ty VT nói riêng đều tuân thủ một trình tự nhất định theo
chuẩn mực kiểm toán quốc tế công nhận, bao gồm 3 bước cơ bản sau:
Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán bao gồm tất cả các công việc khác nhau
nhằm tạo ra cơ sở pháp lý, kế hoạch kiểm toán cụ thể và các điều kiện vật
chất khác cho công tác kiểm toán.
Bước 2: Thực hành kiểm toán bao gồm tất cả các công việc thực hiện
chức năng xác minh của kiểm toán để khẳng định được thực chất của đối
tượng và khách thể kiểm toán cụ thể.
Bước 3: Kết thúc kiểm toán bao gồm các công việc đưa ra kết luận
kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán và giải quyết các công việc phát sinh sau
khi lập báo cáo kiểm toán.
Chuẩn bị là bước công việc đầu tiên của quy trình kiểm toán nhằm
tạo ra tất cả các tiền đề và điều kiện cụ thể trước khi thực hành kiểm toán.
Đây là công việc có ý nghĩa quyết định chất lượng kiểm toán. Chuẩn bị
kiểm toán các doanh nghiệp VT về cơ bản có những công việc sau:
Xác định mục tiêu, phạm vi kiểm toán: Phạm vi kiểm toán là giới hạn
về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán. Phạm vi kiểm toán
thường được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán, là một hướng cụ
thể hoá mục tiêu này. Các đơn vị VT có địa bàn hoạt động rất rộng, với
nhiều trung tâm nhỏ trải dài từ Bắc vào Nam, do đó phạm vi kiểm toán là
rất rộng cả về không gian và thời gian.
Chỉ định tổ kiểm toán phụ trách công việc kiểm toán và chuẩn bị các
điều kiện vật chất cơ bản: Nhân sự thực hiện kiểm toán các đơn vị VT đòi
hỏi phải là những KTV có kinh nghiệm trong ngành, có hiểu biết sâu sắc,
đầy đủ về những đặc thù của ngành, để từ đó có thể kiểm soát được cuộc
kiểm toán, đảm bảo các ý kiến đưa ra là chính xác, hợp lý, tránh những sai
sót trọng yếu không đáng có có thể xảy ra. Một cuộc kiểm toán đối với một
đơn vị VT thường được thực hiện trong thời gian dài, do đó tổ kiểm toán
cần phải tính toán trước về thời gian, phương tiện đi lại, máy móc thiết bị,
tài liệu thiết yếu cần cho cuộc kiểm toán, để đảm bảo tính chủ động
trong quá trình thực hiện.
Khảo sát và thu thập thông tin: Khách hàng VT thường là khách
hàng thực hiện kiểm toán lâu năm, do đó khi thu thập thông tin, trước hết
cần tận dụng tối đa nguồn tài liệu đã có từ các năm trước, song khi cần thiết
vẫn phải có những biện pháp điều tra bổ sung.
Thực hiện các thủ tục phân tích: sau khi đã thu thập được các thông
tin cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng, KTV tiến hành
thực hiện các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hỗ trợ
cho việc lập kế hoạch về bản chất, thời gian và nội dung các thủ tục kiểm
toán sẽ được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán.
Đánh giá tính trọng yếu và ước lượng ban đầu về tính trọng yếu,
đồng thời phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản
mục: Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu và lượng t ối đa mà KTV tin
rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến
các quyết định của người sử dụng thông tin tài chính.
Đánh giá rủi ro: Tính trọng yếu trong kiểm toán, mức độ trọng yếu
và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ ngược chiều nhau. Nếu mức độ trọng
yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. KTV phải quan
tâm tới mối quan hệ này khi xác định bản chất, thời gian và phạm vi của
thủ tục kiểm toán cần thực hiện.
Nghiên cứu hệ thống KSNB của khách hàng và đánh giá rủi r o kiểm
soát: KTV phải đánh giá hệ thống KSNB và rủi ro kiểm soát không chỉ để
xác minh tính hữu hiện của KSNB mà còn làm cơ sở cho việc xác định
phạm vi thực hiện các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ của đơn
vị.
Lập kế hoạch kiểm toán: Lập kế hoạch kiểm toán giúp KTV lựa chọn
phương pháp kiểm toán thích hợp , hiệu quả để thu thập bằng chứng kiểm
toán, bố trí hợp lý các yếu tố của nguồn lực và thời gian kiểm toán; thống
nhất những hoạt động phối hợp giữa KTV và đơn vị được kiểm toán, nhằm
tạo ra những điều kiện cần thiết cho cuộc kiểm toán thực hiện bảo đảm
được chất lượng, đúng tiến độ và tiết kiệm.
Xây dựng chương trình kiểm toán: Chương trình kiểm toán xây dựng
cho các đơn vị VT cần chú ý đối với các chương trình kiểm toán về DT, giá
vốn, HTK, TSCĐ vì các nội dung này tại các đơn vị VT có khá nhiều đặc
thù khác biệt so với các đơn vị sản xuất hay thương mại khác.
Thực hành kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ thuật
kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng
kiểm toán. Thực chất của hoạt động kiểm toán BCTC là quá trình thu thập
bằng chứng nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp của
BCTC với các chuẩn mực, các quy định đã được thiết lập. Từ đó có thể
thấy thực hành kiểm toán là hướng tới bằng ch ứng cho những ý kiến kết
luận của kiểm toán. Tại Việt Nam, các công ty VT hầu hết đều là công ty
con của các tập đoàn lớn, do đó khi thực hiện kiểm toán, KTV cần chú ý
thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết để phục vụ cho công tác hợp nhất
BCTC toàn tập đoàn. KTV cần thu thập được các bằng chứng kiểm toán
đầy đủ và thích hợp thông qua việc thực hiện các phương pháp kiểm toán
cơ bản và phương pháp kiểm toán tuân thủ. KTV phải đánh giá toàn bộ các
bằng chứng mà mình thu thập được, xem những bằng chứng ấy đã đầy đủ
thích hợp chưa trước khi đưa ra ý kiến đánh giá, nhận xét và kết luận của
mình. Theo đó, KTV nên chọn những nghiệp vụ nào, khoản mục nào liên
quan tới BCTC để tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán trong khi nhân
sự và thời gian cho một cuộc kiểm toán bao giờ cũng có giới hạn, do đó
chọn mẫu kiểm toán là công việc nhất thiết phải thực hiện.
Chọn mẫu kiểm toán là việc áp dụng các phương pháp kiểm toán cơ
bản và kiểm toán tuân thủ để kiểm tra dưới 100% các khoản mục trong
phạm vi số dư của một tài kh oản hoặc một nghiệp vụ, giúp KTV thu thập
và đánh giá bằng chứng của các số dư, nghiệp vụ hoặc có đặc điểm tương
tự như nhau để hình thành các ý kiến kết luận. Sau khi tiến hành chọn mẫu,
KTV dùng các phương pháp kỹ thuật để thu thập các bằng chứng kiểm toán
thích hợp và đầy đủ. Các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán
thường được vận dụng trong kiểm toán BCTC bao gồm: kiểm tra vật chất,
quan sát, điều tra, lấy xác nhận, xác minh tài liệu, tính toán và phân tích.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ VT, sản phẩm được hình
thành từ nhiều công đoạn, chi phí phát sinh trong mỗi công đoạn là khác
nhau, đo dó để thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán, KTV cần có
hiểu biết chi tiết, cụ thể quy trình hoạt động của đơn vị để từ đó có phương
pháp thu thập bằng chứng kiểm toán phù hợp nhất.
Thu thập bằng chứng kiểm toán là khâu rất quan trọng trong tổ chức
kiểm toán BCTC. Bằng chứng kiểm toán là cơ sở để KTV đưa ra ý kiến
nhận xét, kết luận về BCTC, đồng thời tăng thêm tính hiệu lực và hiệu quả
của công việc kiểm toán, là bằng chứng chứng minh cho công việc kiểm
toán đã hoàn thành. Nó là nguồn thông tin để lập báo cáo kiểm toán và trả
lời theo các yêu cầu cần giải trình cho đơn vị được kiểm toán hay bất kỳ
bên thứ ba nào, ngoài ra nó còn là bằng chứng chứng minh cho sự tuân thủ
các nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán của KTV, và tạo điều kiện cho
việc kiểm tra và soát xét chất lượng làm tài liệu lưu trữ phục vụ cho các kỳ
kiểm toán sau tham khảo.
Để kết thúc kiểm toán, tổ kiểm toán cần đưa ra kết luận kiểm t oán
trên cơ sở lập báo cáo kiểm toán. Báo cáo kiểm toán là ý kiến nhận xét,
đánh giá và kết luận của KTV dựa trên các bằng chứng kiểm toán đã thu
thập được làm căn cứ cho việc diễn đạt các nhận xét của mình về các thông
tin tài chính trên BCTC và nêu ra những kiến nghị mà đơn vị cần phải sửa
chữa khắc phục. Trong Báo cáo kiểm toán, KTV đưa ra ý kiến nhận xét, ý
kiến kết luận từ đó có những kiến nghị phù hợp với đơn vị sự nghiệp có thu
được kiểm toán và kiến nghị với cơ quan chức năng có liên quan.
Ý kiến nhận xét: KTV nêu rõ ý kiến của mình về các vấn đề đã trình
bày trong BCTC, về tình hình tài chính của đơn vị. Báo cáo kiểm toán phải
trình bày đầy đủ, diễn đạt rõ ràng ý kiến của KTV về nhận xét BCTC, giải
trình về tình hình tài chính, kết quả thu chi ngân sách phù hợp với các quy
định về nguyên tắc kế toán và các tiêu chuẩn đã quy định. KTV có trách
nhiệm đưa ra các ý kiến kết luận, xác định mức độ tin cậy về tính trung
thực, hợp pháp của thông tin tài chính đã được kiểm toán dựa trên cơ sở các
phán xét nghề nghiệp, không nêu những vấn đề nhận xét chung chung.
KTV đưa ra ý kiến nhận xét về các nội dung: BCTC được lập có phù hợp
với các thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực kế toán; các thông tin tài chính
có phù hợp với các quy định hiện hành và các yêu cầu của pháp luật; toàn
bộ các thông tin tài chính của đơn vị có nhất quán với hiểu biết của KTV về
chức năng nhiệm vụ của đơn vị được kiểm toán; các thông tin tài chính có
thể hiện thỏa đáng mọi vấn đề trọng yếu, trung thực và hợp lý. Đối với các
đơn vị VT, khi đưa ý kiến kiểm toán, KTV cần chú ý đến các vấn đề mang
tính đặc thù của ngành như cách ghi nhận doanh thu cước, các chi phí sửa
chữa bảo dưỡng thiết bị VT, khả năng quản lý và thu hồi công nợ, việc
quản lý tính lỗi thời của HTK (chủ yếu là TBĐC).
Kiến nghị của KTV là những đề xuất của KTV dựa trên các kết quả
và kết luận kiểm toán, bao gồm kiến nghị đối với đơn vị được kiểm toán về
các nội dung: giải pháp sửa chữa những sai sót, khắc phục những nhược
điểm, giải quyết những vi phạm trong công tác quản lý tài chính của đơn
vị; những giải pháp phát huy những ưu điểm, những mặt tích cực để nâng
cao chất lượng công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị. Kiến nghị đối
với các cơ quan và các cấp có thẩm quyền về các nội dung: những biện
pháp xử lý các sai phạm trong quản lý tài chính kế toán của đơn vị; những
giải pháp tăng cường quản lý, hướng dẫn, giúp đơn vị khắc phục những yếu
kém, khó khăn, vướng mắc trong quản lý tài chính, kế toán của đơn vị.
Trong chương 2, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng kiểm
toán BCTC các Công ty VT tại Công ty TNHH dịch vụ kiểm toán và tư vấn
UHY, tác giả cho người đọc thấy được một số đặc điểm chung về Công ty
có ảnh hưởng đến quy trình kiểm toán BCTC, đồng thời nêu ra một số nhận
xét chung về thực trạng này. Công ty thực h iện kiểm toán BCTC các công
ty VT thông qua 3 bước chính: Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm
toán, thực hiện kiểm toán, hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm
toán
Bước lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán được chia
thành 3 giai đoạn: Các công việc thực hiện trước khi kiểm toán, lập kế
hoạch kiểm toán tổng thể, thiết kế chương trình kiểm toán
Các công việc thực hiện trước khi kiểm toán bao gồm: tiếp nhận yêu
cầu của khách hàng, khảo sát yêu cầu của khách hàng, gửi thư báo giá,
nhận hồi báo và lập hợp đồng kiểm toán, tổ chức nhóm kiểm toán. Các
khách hàng VT là khách hàng thường xuyên của UHY, nên các công việc
này được thực hiện đơn giản hơn do có sự kế thừa các công việc đã thực
hiện từ năm kiểm toán trước. Riêng đối với việc tổ chức nhóm kiểm toán,
do nhân sự kiểm toán thường thay đổi và biến động khá nhiều trong mỗi
năm, do đó trước mỗi cuộc kiểm toán, chủ nhiệm kiểm toán tập hợp tất cả
các nhóm kiểm toán đã được phân công trực tiếp thực hiện kiểm toán tại
khách hàng và tổ chức một số buổi đào tạo về cách tiếp cận và những điểm
cần lưu ý khi kiểm toán các đơn vị VT. Chủ nhiệm kiểm toán phải là người
có kinh nghiệm kiểm toán các đơn vị VT và hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực
VT. Dựa vào các kinh nghiệm và hiểu biết này, chủ nhiệm kiểm toán đưa
ra các nội dung cần lưu ý và phương pháp thực hiện kiểm toán đối với các
nội dung này, từ đó giúp các KTV có hiểu biết sơ bộ và nắm bắt được các
vấn đề trọng yếu cần chú ý khi thực hiện kiểm toán trực tiếp tại khách hàng
Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể bao gồm các bước: tìm hiểu về hoạt
động kinh doanh của khách hàng, đánh giá rủi ro kiểm toán và hệ thống
KSNB, phân tích sơ bộ BCTC, đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán,
kiểm tra tính hoạt động liên tục, lập kế hoạch kiểm toán tổng hợp.
Kết thúc quá trình lập kế hoạch kiểm toán, các thủ tục kiểm toán cần
thiết để có thể thu thập được đủ bằng chứng làm căn cứ cho ý kiến của
KTV được tập hợp trong các chương trình kiểm toán đối với từng khoản
mục cụ thể. Tại Công ty Kiểm toán UHY, các chương trình này được lập từ
trước và được áp dụng đối với tất cả các khách hàng. Tuy vậy các khách
hàng VT là khá đặc thù, do đó KTV phải tìm hiểu v à xây dựng chương
trình kiểm toán DT và giá vốn cho phù hợp với đặc thù của khách hàng.
Trong phạm vi có hạn, luận văn chỉ nêu Chương trình kiểm toán DT và Giá
vốn.
Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán chi tiết (Chương trình kiểm toán) đã
được thiết kế trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, KTV bắt đầu việc
thực hiện kiểm toán tuân theo các kế hoạch đã xác định từ trước và thực
hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết lần lượt đối với từng khoản mục. Thủ tục
kiểm tra chi tiết bao gồm: Thủ tục phân tích chi tiết và thủ tục kiểm tra chi
tiết số dư.
Các khoản mục như tiền, công nợ phải thu phải trả, chi phí hoạt
động, TSCĐ, Thuế phải nộp, nguồn vốn, tài sản khác, được thực hiện
tương tự như các khách hàng khác, tuân thủ theo chương trình kiểm toán đã
lập ra. Trong phạm vi này, đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu về thủ tục kiểm toán
đối với 2 khoản mục thể hiện đặc thù hoạt động của khách hàng là khoản
mục DT và Giá vốn hàng bán. Các công ty VT có rất nhiều các dịch vụ nhỏ
lẻ đặc thù, do đó thủ tục kiểm toán thường phải kết hợp cả thủ tục phân tích
chi tiết và thủ tục kiểm tra số dư chi tiết.
Các công việc thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán bao gồm:
tổng hợp và đánh giá lại kết quả kiểm toán, lập dự thảo báo cáo và thư quản
lý, thảo luận lại với khách hàng, soát xét báo cáo kiểm toán, phát hành báo
cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán cần nêu được các hạn chế của đơn vị để từ đó đưa
ra ý kiến chấp nhận toàn bộ, ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến không
chấp nhận hay ý kiến từ chối. Hầu hết báo cáo kiểm toán các doanh nghiệp
kinh doanh VT của Công ty kiểm toán UHY đều đưa ra ý kiến chấp nhận
từng phần. Bên cạnh đó, ngoài những quy định chung về kế toán kiểm toán
do nhà nước ban hành, KTV cần lưu ý cho người đọc các quy định mới
liên quan của riêng ngành VT để người đọc báo cáo hiể u rõ về cơ sở của
các ý kiến này.
Thư quản lý là một phần kết quả của cuộc kiểm toán, nhưng không
nhất thiết phải đính kèm Báo cáo kiểm toán. KTV và công ty kiểm toán
phát hành thư quản lý khi có yêu cầu của đơn vị được kiểm toán (được nêu
trong hợp đồng kiểm toán). Với các khách hàng VT, KTV chịu trách nhiệm
kiểm toán luôn phải chuẩn bị và phát hành thư quản lý rất chi tiết và đầy
đủ, bởi đây là khách hàng tiềm năng của Công ty, hoạt động VT lại là hoạt
động khá đặc thù, có nhiều vấn đề cần lưu ý và rút k inh nghiệm
Sau khi hoàn thiện bản thảo Báo cáo kiểm toán, nhóm trưởng của
nhóm kiểm toán có trách nhiệm gửi trước cho kế toán trưởng đơn vị được
kiểm toán để thống nhất về nội dung cũng như các số liệu trong báo cáo.
Trước khi được phát hành, Báo cáo kiểm toán sẽ được Ban GĐ Công
ty kiểm toán và trưởng/phó phòng trực tiếp của KTV có trách nhiệm phát
hành Báo cáo kiểm toán tiến hành soát xét. Mục tiêu của công tác soát xét
báo cáo kiểm toán nhằm đảm bảo rằng báo cáo kiểm toán được