Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại các công ty xuất khẩu lao động thuộc cục quản lý lao động ngoài nước - Bộ lao động thương binh và xã hội

Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp đều tổ chức công tác hạch toán kế toán tại đơn vị mình. Nhưng việc áp dụng tổ chức hạch toán kế toán này vẫn còn chưa thống nhất còn nhiều bất cập và chưa thành một hệ thống hoàn chỉnh vì thế mà công tác kiểm tra, kiểm soát hầu như là không thể quản lý hết được. Trong tất cả các khâu quản lý tại doanh nghiệp, có thể nói tổ chức hạch toán kế toán là một trong những vấn đề mấu chốt của doanh nghiệp, nó không thể không có và liên hệ chặt chẽ với các bộ phận khác trong doanh nghiệp để tạo nên một bộ máy quản lý hoàn chỉnh. Bởi chức năng của kế toán là cung cấp và truyền đạt các thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác nhau, mục đích của kế toán nhằm cung cấp các thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định kinh tế- xã hội, cho việc đánh giá hiệu quả tổ chức và quản lý. Vì vậy, vai trò của kế toán là thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin về tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp cho các đối tượng cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đối với đối tượng bên trong đó là những người ra quyết định quản lý, trong việc lập kế hoạch và giám sát hoạt động, còn các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như là các chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các nhà cho vay tín dụng, những người cung cấp tiền cho doanh nghiệp hoặc có mối quan tâm khác đối với doanh nghiệp các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan hữu quan như là cơ quan thuế, ngân hàng, chi cục thống kê, Chính phủ.từ đó giúp họ ra các quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Như vậy, nhiệm vụ cơ bản của kế toán là cung cấp thông tin tài chính cho những người ra quyết định. Vì vậy mà tổ chức hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị. Các công ty XKLĐ thuộc Cục quản lý LĐNN cũng không nằm ngoài điều đó. Tổ chức hạch toán kế toán tại các công ty XKLĐ hiện nay vẫn chưa đồng bộ, vẫn còn những tồn tại nhất định, vì thế đã làm sai lệch bản chất của hoạt động kinh doanh mặc dù chế độ kế toán đã ban hành nhưng việc thực hiện còn gặp phải một số những trở ngại và quản lý chưa được chặt chẽ

pdf14 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại các công ty xuất khẩu lao động thuộc cục quản lý lao động ngoài nước - Bộ lao động thương binh và xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ---------------- NGUYỄN THỊ LIÊN HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÁC CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THUỘC CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƢỚC - BỘ LAO ĐỘNG THƢƠNG BINH VÀ XÃ HỘI CHUYÊN NGÀNH: KẾ TOÁN (KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VÀ PHÂN TÍCH) TÓM TẮT LUẬN VĂN HÀ NỘI – 2011 CHƢƠNG 1 GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI 1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp đều tổ chức công tác hạch toán kế toán tại đơn vị mình. Nhưng việc áp dụng tổ chức hạch toán kế toán này vẫn còn chưa thống nhất còn nhiều bất cập và chưa thành một hệ thống hoàn chỉnh vì thế mà công tác kiểm tra, kiểm soát hầu như là không thể quản lý hết được. Trong tất cả các khâu quản lý tại doanh nghiệp, có thể nói tổ chức hạch toán kế toán là một trong những vấn đề mấu chốt của doanh nghiệp, nó không thể không có và liên hệ chặt chẽ với các bộ phận khác trong doanh nghiệp để tạo nên một bộ máy quản lý hoàn chỉnh. Bởi chức năng của kế toán là cung cấp và truyền đạt các thông tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác nhau, mục đích của kế toán nhằm cung cấp các thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định kinh tế- xã hội, cho việc đánh giá hiệu quả tổ chức và quản lý. Vì vậy, vai trò của kế toán là thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin về tài chính và kết quả hoạt động của doanh nghiệp cho các đối tượng cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đối với đối tượng bên trong đó là những người ra quyết định quản lý, trong việc lập kế hoạch và giám sát hoạt động, còn các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như là các chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các nhà cho vay tín dụng, những người cung cấp tiền cho doanh nghiệp hoặc có mối quan tâm khác đối với doanh nghiệp các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan hữu quan như là cơ quan thuế, ngân hàng, chi cục thống kê, Chính phủ.....từ đó giúp họ ra các quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Như vậy, nhiệm vụ cơ bản của kế toán là cung cấp thông tin tài chính cho những người ra quyết định. Vì vậy mà tổ chức hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị. Các công ty XKLĐ thuộc Cục quản lý LĐNN cũng không nằm ngoài điều đó. Tổ chức hạch toán kế toán tại các công ty XKLĐ hiện nay vẫn chưa đồng bộ, vẫn còn những tồn tại nhất định, vì thế đã làm sai lệch bản chất của hoạt động kinh doanh mặc dù chế độ kế toán đã ban hành nhưng việc thực hiện còn gặp phải một số những trở ngại và quản lý chưa được chặt chẽ. Hiện nay, đa số các công ty XKLĐ chưa hình thành hệ thống kế toán quản trị, mà chỉ dừng lại là các thông tin kế toán tài chính cung cấp là các số liệu phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ đã qua, cho nên số liệu có tính lịch sử, không đủ đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà quản trị ở trong doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta hiện nay. Vì vậy, yêu cầu của kế toán quản trị đối với các công ty XKLĐ hiện nay là vấn đề cấp bách vì kế toán quản trị cung cấp các thông tin nhằm thỏa mãn nhu cầu của nhà quản trị các cấp ở doanh nghiệp. Việc ra quyết định của họ có tác động đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Như vậy, nếu thông tin không đầy đủ, các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý điều hành doanh nghiệp. Nếu như thông tin không chính xác, các nhà quản trị có thể đưa ra các quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp, nếu thông tin không đáp ứng kịp thời thì các vấn đề tồn tại không giải quyết được và có thể mất cơ hội trong kinh doanh. Từ đó, ảnh hưởng trực tiếp đến các công ty XKLĐ và NLĐ khi đi làm việc tại nước ngoài. Vì vậy, hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại các công ty XKLĐ ngày càng trở nên cấp thiết bởi kế toán cung cấp những thông tin hữu ích về tình hình hoạt động xuất khẩu hiện nay. Dựa trên những thông tin ấy, các nhà lãnh đạo, các ban ngành như Cục quản lý LĐNN, Bộ LĐ và TBXH sẽ có được những phân tích chuẩn xác về các thị trường mà các doanh nghiệp hiện nay đang đưa NLĐ đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài. Trên cơ sở để khai thác các thị trường mới, tiềm năng mới để tránh được những rủi ro khách quan, chủ quan đến cho doanh nghiệp và NLĐ. Việc hạch toán kế toán phải tuân theo các quy định hiện hành của chế độ kế toán. Để chế độ tài chính kế toán đến được với doanh nghiệp cần có một quá trình thích ứng nhất định. Nhà nước sẽ dựa vào tình hình thực hiện chế độ ở các doanh nghiệp, tìm ra những vướng mắc để có thể sửa đổi kịp thời. Vì vậy, việc hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán sẽ mang lại thuận lợi rất lớn cho các doanh nghiệp trong việc áp dụng một cơ chế quản lý khoa học và hiệu quả, đồng thời là một bước tiến quan trọng trong công tác quản lỹ vĩ mô của nhà nước. Với vai trò hiện nay, các công ty XKLĐ đang đóng một phần rất lớn về việc thu ngoại tệ về cho quốc gia và đóng góp tỷ trọng lớn để giải quyết nhu cầu việc làm. Nó không những mang ý nghĩa về kinh tế mà còn mang ý nghĩa về xã hội. Trong những năm qua, các công ty đã nỗ lực rất lớn từng bước hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại các doanh nghiệp của mình để tránh những trường hợp mà NLĐ phải mất những khoản tiền qua các đối tượng trung gian, cố gắng đàm phán với đối tác nước ngoài để có được những khoản môi giới thấp nhất đưa ra những cách quản lý tiền để đảm bảo NLĐ không mất nhiều chi phí trước khi xuất cảnh. Nhận thức được tầm quan trọng đó, từ những hiểu biết của bản thân về các công ty XKLĐ hiện nay và thấu hiểu được cuộc sống của người dân muốn thoát khỏi cái nghèo, em đã chọn đề tài “ Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại các công ty XKLĐ thuộc Cục quản lý LĐNN - Bộ lao động thương binh xã hội ” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ. CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP 2.1 KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÕ CỦA TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP [7] 2.1.1 Khái niệm chung về tổ chức hạch toán kế toán Hạch toán kế toán là một môn khoa học phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế tài chính ở tất cả các doanh nghiệp, các cơ quan và tổ chức sự nghiệp. Xét từ bản chất của hạch toán kế toán mà có các quan điểm khác nhau về tổ chức hạch toán kế toán như là: Quan điểm thứ nhất: Tổ chức hạch toán kế toán là việc tạo lập mối liên hệ bản chất giữa đối tượng hạch toán và các phương pháp kế toán thông qua nhân tố con người cung cấp thông tin cho quản lý, đảm bảo điều kiện để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và phát huy tốt vai trò của kế toán trong hoạt động quản lý. Quan điểm thứ hai: Tổ chức hạch toán kế toán là tổ chức khối lượng công tác kế toán và bộ máy kế toán cho doanh nghiệp. Tổ chức hạch toán kế toán cũng chính là tổ chức vận dụng chế độ kế toán chung cho từng đơn vị cơ sở theo nguyên tắc tổ chức nhất định. Quan điểm thứ ba: Xuất phát từ nội dung và nhiệm vụ của hạch toán kế toán là thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về tình hình kinh tế tài chính của doanh nghiệp, quan điểm này cho rằng: Tổ chức hạch toán kế toán phải giải quyết cả hai phương diện: Tổ chức thực hiện các phương pháp kế toán, các nguyên tắc kế toán, các phương tiện tính toán nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của kế toán và tổ chức bộ máy kế toán nhằm liên kết các cán bộ kế toán để thực hiện tốt công tác kế toán. Từ những quan điểm nêu trên đều thể hiện được những nội dung, phương diện cơ bản của tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp nhưng chưa đầy đủ. Tổng hợp các quan điểm nêu trên có thể khái quát lại là tổ chức hạch toán kế toán là việc tổ chức nhân sự kế toán theo các phần hành kế toán cụ thể, áp dụng các phương pháp kế toán phù hợp với yêu cầu thu nhận, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính phù hợp với yêu cầu đặc điểm cụ thể của từng doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh. 2.1.2 Vai trò của tổ chức hạch toán kế toán trong hoạt động quản lý tài chính Tổ chức hạch toán kế toán là cầu nối giữa lý thuyết hạch toán kế toán và thực tiễn hạch toán kế toán, là cơ sở để ban hành pháp luật về kế toán. Tổ chức hạch toán kế toán giúp cho doanh nghiệp có được khối lượng công tác kế toán hợp lý trong điều kiện có hạn về nhân sự kế toán, về kỹ thuật và trình độ thao tác nghiệp vụ. 2.1.3 Nhiệm vụ của tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp Thứ nhất ở tầm vĩ mô thì tổ chức hạch toán cung cấp thông tin cho việc xây dựng ban hành các chế độ văn bản pháp lý về kế toán. Thứ hai ở các doanh nghiệp thì nhiệm vụ tổ chức hạch toán kế toán là tổ chức bộ máy kế toán và tổ chức vận dụng các chế độ kế toán phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. 2.2 CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP[7] Tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp gồm 4 nguyên tắc: Nguyên tắc thống nhất, nguyên tắc phù hợp, nguyên tắc chuẩn mực, nguyên tắc hiệu quả 2.3 NỘI DUNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP [2] [4] [7] Tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp bao gồm tổ chức bộ máy kế toán và tổ chức công tác kế toán. Bộ máy kế toán của một doanh nghiệp là tập hợp những người làm kế toán tại doanh nghiệp cùng với các phương tiện trang thiết bị dùng để ghi chép, tính toán xử lý toàn bộ thông tin liên quan đến công tác kế toán tại doanh nghiệp từ khâu thu nhận, kiểm tra, xử lý đến khâu tổng hợp, cung cấp những thông tin kinh tế về các hoạt động của đơn vị. Tùy theo quy mô và đặc điểm về tổ chức sản xuất và quản lý của doanh nghiệp mà tổ chức bộ máy được thực hiện theo các hình thức sau: - Hình thức tổ chức bộ máy kế toán tập trung - Hình thức tổ chức bộ máy kế toán phân tán - Hình thức tổ chức bộ máy kế toán vừa tập trung vừa phân tán Tổ chức công tác kế toán bao gồm có tổ chức hệ thống chứng từ, tổ chức hệ thống tài khoản, tổ chức sổ kế toán và tổ chức báo cáo kế toán CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÁC CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THUỘC CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƢỚC - BỘ LĐ & TBXH 3.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THUỘC CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƢỚC - BỘ LĐ & TBXH 3.1.1 Giới thiệu chung về hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam Hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, còn gọi là hợp tác lao động quốc tế hay xuất khẩu lao động bắt đầu từ năm 1980. Cùng với sự biến động về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội hoạt động đưa người lao động đi làm việc tại nước ngoài của nước ta có những chuyển biến đáng kể, cả về chiều rộng và chiều sâu. Hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ta được chia ra làm 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1980 - 1990: Hợp tác lao động và chuyên gia - Giai đoạn 1991 - 2000: Xuất khẩu lao động và chuyên gia - Giai đoạn 2001 - nay: Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia 3.1.2 Đặc điểm chung của các công ty XKLĐ XKLĐ là một loại hình xuất khẩu mang tính chất đặc thù mà hàng hóa đem đi xuất khẩu đó là sức lao động. Nhưng ở đây muốn nói XKLĐ là một bộ phận của kinh tế đối ngoại mà khách mua lại là chủ thể nước ngoài. Chủ thể nước ngoài ở đây có thể là một tổ chức hoặc một cá nhân nhưng được thông qua một đối tượng trung gian để mua sức lao động này. Nói tóm lại XKLĐ là một hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng lao động mà lao động ở đây có thể là lao động có tay nghề hoặc không có tay nghề, có thể dưới dạng hình thức tu nghiệp sinh, mà đối tượng lại là con người. Nhiệm vụ của các công ty XKLĐ Nghiên cứu và tìm kiếm thị trường nước ngoài có nhu cầu cần lao động, tìm kiếm nguồn lao động trong nước để tiến hành cung ứng lao động ra nước ngoài. Các công ty XKLĐ chỉ được phép XKLĐ mà Cục cho phép trong phạm vi của mình, không phải các công ty đều được XKLĐ sang tất cả các nước 3.1.3 Tổ chức và hoạt động của các công ty XKLĐ Hoạt động XKLĐ thường diễn ra theo hai hình thức: Một là XKLĐ tại chỗ và Hai là đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài Một số thị trường trọng điểm mà các công ty XKLĐ thuộc Cục quản lý LĐNN thực hiện: Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông.... 3.2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÁC CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THUỘC CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƢỚC – BỘ LĐ & TB XH 3.2.1 Tổ chức bộ máy kế toán Qua khảo sát thực tế tại các công ty XKLĐ thuộc Cục quản lý lao động ngoài nước này có thể nhận thấy rằng hầu hết bộ máy kế toán của các công ty đều được tổ chức theo mô hình tập trung, một số các công ty thì theo mô hình phân tán và mô hình hỗn hợp. Dưới đây là một số mô hình tổ chức bộ máy kế toán mà tác giả đã khảo sát được. Bảng 3.1 Mô hình tổ chức BMKT tại các công ty thuộc Cục quản lý LĐNN Tên doanh nghiệp Mô hình tổ chức bộ máy Tập trung Phân tán Hỗn hợp Công ty CP XKLĐ và DVTM Biển Đông × Công ty CP cung ứng nhân lực Việt Nhật × Công ty CP XKLĐ thương mại và du lịch × Công ty cung ứng nhân lực Quốc tế và thương mại × Nguồn: Tác giả 3.2.2 Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán Thứ nhất về vấn đề lập chứng từ: Qua khảo sát thực tế hầu hết các Công ty XKLĐ đều áp dụng chế độ kế toán theo quyết định 15/2006/QĐ – BTC. Mặc dù trong các công ty XKLĐ cũng có các công ty quy mô vừa và nhỏ nhưng đều áp dụng theo quyết định này. Điều đó thể hiện được độ vững vàng trong công kế toán của doanh nghiệp. Qua tìm hiểucó thể nhận thấy rằng hệ thống chứng từ kế toán của các công ty XKLĐ được thực hiện đúng về biểu mẫu, ký chứng từ theo quyết định 15/2006/QĐ - BTC về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp Về vấn đề kiểm tra chứng từ: Qua khảo sát thực tế cho thấy hầu hết các công ty không có bộ phận kiểm tra chứng từ riêng. Sau khi chứng từ được lập sẽ được phòng kế toán kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ và tiến hành ghi sổ kế toán. Về khâu lưu trữ và bảo quản chứng từ Việc bảo quản chứng từ kế toán tại các công ty nay còn chưa được chú trọng, chưa có sự phân loại hợp lý theo nội dung kinh tế của chứng từ để thuận lợi cho việc lưu trữ và sử dụng lại chứng từ khi cần thiết. Việc lưu giữ chứng từ giữa phòng kế toán và phòng thị trường chưa được rõ ràng. NLĐ trước khi xuất cảnh thì có rất nhiều giấy tờ đi kèm và có một bộ hồ sơ riêng cho từng lao động. Hợp đồng lao động không phải bộ phận kế toán giữ mà phòng thị trường thường giữ trong hồ sơ lao động. Điều đó rất bất cập vì khi bộ hồ sơ bị mất hoặc hợp đồng lao động bị lấy ra thì liên quan đến bộ phận kế toán trường hợp lao động về nước không thể giải quyết được. Vì hợp đồng lao động giữa công ty và NLĐ là rất quan trọng Về vấn đề kế hoạch luân chuyển chứng từ: Một số nghiệp vụ liên quan đến luân chuyển chứng từ chủ yếu là các chứng từ thu chi tiền mặt. Các công ty XKLĐ này thường chỉ có một thủ quỹ thực hiện các khoản thu chi hàng ngày, sau khi được kế toán trưởng và giám đốc phê duyệt., kế toán thanh toán ký thì mới thu chi chi tiền. 3.2.3 Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán Qua tìm hiểu thực tế cho thấy đa số các Công ty XKLĐ hoạt động sử dụng hệ thống tài khoản theo quyết định 15/2006/QĐ - BTC ngày 20/03/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp 3.2.4 Tổ chức hệ thống sổ kế toán Qua khảo sát thực tế tại các công ty XKLĐ hầu hết tất cả đều sử dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ và Nhật ký chung trên máy tính và có đăng ký với cơ quan thuế và đều áp dụng chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ - /BTC ngày 20/03/2006 của Bộ tài chính về thệ thống sổ kế toán. 3.2.5 Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán Qua tìm hiểu thực tế cho thấy hầu hết các Công ty XKLĐ hệ thống báo cáo của các công ty thì theo quyết định 15/2006/NĐ-BTC ngày 20/03/2006. Hệ thống báo cáo tài chính của các Công ty XKLĐ gồm: - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ - Thuyết minh báo cáo tài chính Qua khảo sát cho thấy thì hệ thống báo cáo tài chính của các Công ty XKLĐ được lập do Kế toán tổng hợp lập và được kế toán trưởng kiểm tra và xem xét trước khi gửi cho Ban giám đốc, hội đồng quản trị, cơ quan thuế, Chi cục thống kê. 3.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 3.3.2.1 Hạn chế Thứ nhất về bộ máy kế toán: Hầu hết các công ty XKLĐ đều có bộ máy kế toán là tập trung thu nhận, xử lý dữ liệu và cung cấp thông tin của kế toán tài chính mà chưa có bộ phận riêng phục vụ cho yêu cầu quản trị, phân tích hoạt động kinh doanh. Cán bộ kế toán trình độ tin học chưa cao vì vậy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào kế toán vẫn chưa được hiệu quả, đôi khi trong quá trình xử lý, cung cấp thông tin vẫn còn chậm. Ngoài ra công ty vẫn chưa có bộ phận kế toán quản trị để có thể phân tích và đưa ra chiến lược cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hầu hết cán bộ kế toán đều hạn chế về ngoại ngữ nên việc xử lý về tài chính đối với đối tác nước ngoài đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. Thứ hai về thống chứng từ kế toán: Hệ thống chứng từ vẫn còn thiếu những chứng từ để đảm bảo người lao động hiểu rõ được các khoản tiền phải đóng. Do đặc thù của lĩnh vực xuất khẩu lao động là khoản tiền phí dịch vụ thu trước của người lao động là 2 năm và Thứ ba về hệ thống tài khoản kế toán: Công ty đã mở thêm tài khoản cấp 2 và cấp 3 phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng một số tài khoản cấp 3 công ty mở ra quá là chi tiết như TK 3388.1, 3388.2, 3388.3 phân loại theo nội dung phát sinh điều này không cần thiết. Thứ tư là hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống báo cáo vẫn còn thiếu để phục vụ cho kế toán quản trị do chưa có bộ phận kế toán quản trị tách biệt. 3.3.2.2 Nguyên nhân - Do ban lãnh đạo có suy nghĩ rằng là chỉ có phòng thị trường khai thác tốt thị trường lao động thì sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh hơn là công tác kế toán. - Kế toán trưởng các công ty này mặc dù đã xây dựng quy chế tài chính cho công ty nhưng thực tế nó chỉ mang tính chất giấy tờ mà thiếu tính thực hiện. - Do trình độ nhân viên kế toán còn hạn chế về nghiệp vụ chuyên môn và do bộ máy kế toán chủ yếu là nữ nên trong công tác toán có những lúc mà họ đã bị gián đoạn như là sinh con. - Cơ sở trang vật chất trang thiết bị vẫn còn thiếu chưa đáp ứng đủ cho công tác kế toán. Hiện nay hầu hết các công ty XKLĐ chưa được trang bị máy in chuyên dụng dùng cho in hóa đơn chứng từ. Vì thế mà vẫn phải viết thủ công để giao cho khách hàng. CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÁC CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THUỘC CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƢỚC - BỘ LĐ & TBXH 4.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN HIỆN TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI CÁC CÔNG TY XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG THUỘC CỤC QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NGOÀI NƢỚC – BỘ LĐ & TBXH 4.1.1 Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng XKLĐ đến năm 2020 Nước ta lại đứng trước rất nhiều những cơ hội phát triển nguồn lao động dồi dào. Từ những cơ hội đó mà Đảng và nhà nước đã đưa ra các chiến lược phát triển XKLĐ năm 2020 như là: - Xây dựng Việt Nam một thương hiệu về XKLĐ đó là tới năm 2020 , tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 70%, trong đó lao động qua đào tạo nghề chiểm 55%. Với mục tiêu đó thì đến năm 2020 cả nước sẽ có 540 trường cao đẳng và trung cấp dạy nghề, thêm vào đó có 670 trung tâm dạy nghề tuyến huyện. Như vậy công suất dạy nghề đến năm 2020 tăng lên khoảng 2,5 triệu người một năm. - Xây dựng chiến lược là hỗ trợ đặc biệt những hộ gia đình người có công, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; chủ động mở rộng, phát triển thị trường lao động. - Ưu tiên đưa lao động đến thị trường có thu nhập cao, ổn định chính trị, có nền văn hóa tương đồng với Việt Nam, có môi trường sống và lao động an toàn, có luật pháp bảo vệ quyền lợi NLĐ nước ngoài. - Chiến lược năm sắp tới chúng ta vẫn là ổn định và tăng dần thị phần tại các thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia... - Tăng cường XKLĐ thuyền viên, ưu tiên đưa các thủy thủ đoàn lên làm việc tại các tàu vận tải biển quốc tế. Dự báo số lượng lao động trong thời gian tới: THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG Năm 2012 Năm 2015 Năm 2020 Nhật Bản 8.000 11.000 1
Luận văn liên quan