Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam

Ngân sách nhà nước là nguồn chính để phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đáp ứng được các nhu cầu văn hóa, dịch vụ; trong đó Thuế là nguồn thu chính làm gia tăng ngân sách nhà nước. Trong những năm qua, được sự quan tâm mãnh mẽ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức quốc tế, ngành Thuế đã có sự phát triển vượt bậc, hàng năm đóng góp trên 70% tổng nguồn thu của ngân sách nhà nước. Do vậy, để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về lĩnh vực Thuế thì việc tổ chức hạch toán kế toán của ngành Thuế cần phải hoàn thiện hơn nữa, đảm bảo hiệu quả các khoản thu, chi; số liệu báo cáo kế toán của ngành cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước được chính xác và kịp thời. Thông qua đó, cơ quan quản lý nhà nước có cơ chế quản lý tài chính thích hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, tổ chức hạch toán kế toán của ngành Thuế Việt Nam hiện nay được tuân thủ theo chế độ kế toán của đơn vị hành chính sự nghiệp, nhưng do đặc thù riêng của ngành nên việc tổ chức hạch toán kế toán cũng có một số vấn đề cần phải xem xét. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam”. Luận văn góp phần hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại ngành Thuế Việt Nam.

pdf14 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i TÓM TẮT LUẬN VĂN Ngân sách nhà nước là nguồn chính để phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đáp ứng được các nhu cầu văn hóa, dịch vụ; trong đó Thuế là nguồn thu chính làm gia tăng ngân sách nhà nước. Trong những năm qua, được sự quan tâm mãnh mẽ của Đảng, Nhà nước và các tổ chức quốc tế, ngành Thuế đã có sự phát triển vượt bậc, hàng năm đóng góp trên 70% tổng nguồn thu của ngân sách nhà nước. Do vậy, để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về lĩnh vực Thuế thì việc tổ chức hạch toán kế toán của ngành Thuế cần phải hoàn thiện hơn nữa, đảm bảo hiệu quả các khoản thu, chi; số liệu báo cáo kế toán của ngành cung cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước được chính xác và kịp thời. Thông qua đó, cơ quan quản lý nhà nước có cơ chế quản lý tài chính thích hợp, nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, tổ chức hạch toán kế toán của ngành Thuế Việt Nam hiện nay được tuân thủ theo chế độ kế toán của đơn vị hành chính sự nghiệp, nhưng do đặc thù riêng của ngành nên việc tổ chức hạch toán kế toán cũng có một số vấn đề cần phải xem xét. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam”. Luận văn góp phần hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính tại ngành Thuế Việt Nam. Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương: ii CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TRONG CÁC ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP Luận văn đã đi sâu nghiên cứu lý luận về tổ chức hạch toán kế toán gắn liền với các đơn vị hành chính sự nghiệp. Trong đó luận văn đi sâu nghiên cứu lý luận của tổ chức hạch toán kế toán về cách thức tổ chức bộ máy, về vận dụng chế độ kế toán như: chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, sổ kế toán và hệ thống báo cáo kế toán. Cụ thể, gồm những nội dung chính sau: - Về tổ chức bộ máy kế toán - Tổ chức công tác kế toán + Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán + Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán + Tổ chức hệ thống sổ kế toán + Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN TẠI NGÀNH THUẾ VIỆT NAM Luận văn đã khái quát và phân tích thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam, trình bày được những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong thực tế tổ chức hạch toán kế toán trong ngành. Ngành Thuế Việt Nam là đơn vị hành chính sự nghiệp nên chế độ kế toán áp dụng giống như các đơn vị hành chính sự nghiệp nói chung. Ngành Thuế được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất trong toàn ngành. Với đặc thù của ngành Thuế nên tổ chức hạch toán kế toán cũng có những nét khác biệt so với đơn vị hành chính sự nghiệp khác. Mô hình kế iii toán được tổ chức qua 3 cấp từ Tổng cục Thuế, Cục Thuế tỉnh, thành phố đến Chi cục Thuế quận, huyện; được xác định rõ quyền hạn trách nhiệm và sự phân công cụ thể hợp lý giữa cơ quan thuế ngành dọc cấp trên và chính quyền từng cấp trong tổ chức lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nghiêm chỉnh chính sách chế độ thuế chung cả nước và trên địa bàn lãnh thổ theo nguyên tắc song hành lãnh đạo... Căn cứ vào Quyết định 19/2006/QĐ - BTC ngày 30 tháng 03 năm 2006 của Bộ Tài chính về việc ban hành Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp; Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 2345/2007/QĐ-BTC ngày 11 tháng 7 năm 2007về Chế độ kế toán đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính. Ngành Thuế Việt Nam là đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính nên chế độ kế toán áp dụng đúng theo Quyết định 2345/2007/QĐ-BTC ngày 11 tháng 7 năm 2007 về Chế độ kế toán đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính * Tổ chức bộ máy kế toán tại ngành Thuế Việt Nam Kế toán ngành Thuế áp dụng mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán, bộ máy kế toán được phân thành kế toán trung tâm và kế toán đơn vị trực thuộc. Trong đó kế toán trung tâm và kế toán đơn vị trực thuộc đều có sự thống nhất trong việc thực hiện chức năng của mình. Kế toán chi được tổ chức ở 3 cấp: cấp Tổng cục, cấp Cục và cấp Chi cục. * Tổ chức công tác kế toán tại ngành Thuế Việt Nam Tổng cục Thuế là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính nên công tác kế toán tại đơn vị được vận dụng theo đúng Quyết định 2345/2007/QĐ-BTC ngày 11 tháng 7 năm 2007.. Vận dụng tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế được vận dụng chủ yếu ở một số nội dung sau: + Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán Công tác tổ chức chứng từ kế toán ở các đơn vị kế toán trong ngành iv Thuế được thể hiện trên các nội dung sau: Chứng từ sử dụng cho việc lập dự toán, phân bổ dự toán; Chứng từ sử dụng để rút kinh phí được giao; Chứng từ dùng chi cho các nghiệp vụ kinh tế phát sinh (Chỉ tiêu lao động tiền lương; Chỉ tiêu vật tư; Chỉ tiêu tiền tệ; Chỉ tiêu tài sản cố định và một số chỉ tiêu khác). Tùy thuộc vào các cấp khác nhau thì việc luân chuyển chứng từ cũng có những nét đặc trưng khác nhau. + Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán Ngoài các tài khoản mà bất cứ đơn vị hành chính sự nghiệp nào cũng sử dụng ngành Thuế còn sử dụng các tài khoản sau để thực hiện hạch toán các nghiệp vụ kế toán liên quan đến việc nhận, phân bổ, sử dụng và quyết toán nguồn NSNN cấp, bao gồm: TK 336 (tạm ứng kinh phí), TK 461 (nguồn kinh phí hoạt động); TK 466 (Nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố định); TK 511 (các khoản thu); TK 661 (Chi hoạt động); TK 004 (Dự toán chi hoạt động thường xuyên được giao khoán); TK 005 (dụng cụ lâu bền đang sử dụng); TK 008 (dự toán chi hoạt động). + Tổ chức hệ thống sổ kế toán Các đơn vị đều được cài đặt phần mềm kế toán IMAS 1.5 của Bộ Tài chính, áp dụng hình thức ghi sổ kế toán trên máy vi tính; theo hình thức này, phần mềm kế toán được thiết kế theo nguyên tắc của một trong ba hình thức kế toán (Nhật ký chung, Nhật ký - Sổ cái, Chứng từ ghi sổ) hoặc kết hợp các hình thức kế toán đó. Phần mềm kế toán được thiết kế theo hình thức kế toán nào sẽ có các loại sổ chi tiết như trên của hình thức kế toán đó (đều có các loại sổ chi tiết trên, còn sổ kế toán tổng hợp tùy thuộc vào hình thức kế toán: có thể là Sổ Nhật ký chung, Nhật ký - Sổ cái, Chứng từ ghi sổ, Sổ cái (theo hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ hoặc Nhật ký chung). Các đơn vị trong ngành Thuế căn cứ vào quy mô, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán để lựa chọn hình thức kế toán cho phù hợp và phải tuân thủ các quy v định của hình thức sổ kế toán đó, gồm: các loại sổ và kết cấu các loại sổ, quan hệ đối chiếu kiểm tra, trình tự, phương pháp ghi chép các loại sổ kế toán. + Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán Tùy vào quy mô hoạt động và quản lý của mỗi cấp mà hệ thống báo cáo được sử dụng có thể khác nhau, nhưng các cấp đều sử dụng những báo cáo sau để phục vụ cho công tác hạch toán kế toán tại đơn vị, gồm: Bảng cân đối tài khoản (Mẫu số B01 – H); Tổng hợp tình hình kinh phí và quyết toán kinh phí đã sử dụng ( Mẫu số B02 – H); Báo cáo chi tiết kinh phí hoạt động (Mẫu số F02 – 1H); Bảng đối chiếu dự toán kinh phí ngân sách tại KBNN (Mẫu số F02 – 3aH); Báo cáo tình hình tăng, giảm TSCĐ (Mẫu số B04 – H)- lập trên phần mềm Hệ tác nghiệp quản lý tài sản phiên bản 1.0; Nhận xét về thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam  Về ưu điểm - Về tổ chức bộ máy kế toán: Bộ máy kế toán của ngành phù hợp với bộ máy kế toán của đơn vị sự nghiệp nói chung. Với mô hình kế toán phân tán đã giảm bớt công việc kế toán cho mỗi cấp và bộ phận kế toán cấp trên vẫn kiểm tra được việc ghi chép, tổng hợp của bộ phận kế toán cấp dưới. Số liệu kế toán được phản ánh nhanh chóng, kịp thời đáp ứng cho yêu cầu quản lý tài chính nói chung. - Về tổ chức chứng từ kế toán: Các đơn vị đã lựa chọn hệ thống chứng từ phù hợp, bên cạnh việc áp dụng các chứng từ theo mẫu, các đơn vị đã sáng tạo trong việc xây dựng các chứng từ đặc thù, bổ sung thêm một số nội dung cần thiết cho các loại chứng từ theo yêu cầu quản lý. Các chứng từ đều được lập trên máy, do đó việc lập một số chứng từ được nhanh gọn, giúp cho hoạt động quản lý thuận lợi hơn. Quy trình luân chuyển chứng từ tại các đơn vị đều rất khoa học, nghiệp vụ phát sinh được xử lý nhanh, thời gian luân chuyển chứng từ tương đối khẩn trương, đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả. vi - Về tổ chức tài khoản kế toán: Hệ thống tài khoản áp dụng trong ngành tương đối đầy đủ, các khoản chi được hạch toán đúng nghiệp vụ kinh tế phát sinh, giúp cho đơn vị theo dõi và quản lý các khoản chi được chính xác. - Về tổ chức hệ thống sổ kế toán: Hệ thống sổ sách đang được áp dụng khá phù hợp, hình thức sổ kế toán đã được các đơn vị lựa chọn. Phần mềm kế toán được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với hình thức sổ kế toán đó. Khi có chứng từ nhập vào máy, sẽ tự nhảy số liệu vào các sổ, cần theo dõi sổ nào ta chỉ làm thao tác chọn là xong. Do đó, việc ghi chép sổ sách được tiến hành nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch tạo thuận lợi cho việc hạch toán kế toán. - Về tổ chức hệ thống báo cáo kế toán: Báo cáo kế toán được lập rõ ràng, số liệu kế toán, thống kê trong toàn ngành sẽ nhanh chóng kịp thời phục vụ cho công tác quản lý. Báo cáo kế toán là cơ sở để đánh giá công tác quản lý tài chính của ngành, tạo điều kiện cho lãnh đạo Tổng cục Thuế thường xuyên và kịp thời chỉ đạo công tác thu thuế, kiểm tra tình hình thực tế so với kế hoạch dự toán đề ra. Từ đó báo cáo lên Bộ Tài chính và Chính phủ nắm được nguồn thu, chi trong ngành, làm căn cứ để xây dựng chính sách kinh tế vĩ mô, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. - Về phần mềm kế toán IMAS : sau khi phần mềm này được đưa vào sử dụng thì công tác kế toán được đơn giản hoá rất nhiều. Tất cả các chứng từ kế toán đều được in ra từ phần mềm kế toán, làm tăng độ chính xác của thông tin và giảm áp lực công việc cho cán bộ kế toán của ngành. Hệ thống đã đạt được những kết quả chính như sau: + Rút ngắn thời gian lập chứng từ kế toán, thời gian luân chuyển thông tin kế toán từ Chi cục Thuế lên Cục Thuế, từ Cục Thuế lên Tổng cục Thuế được nhanh hơn. + Hệ thống phần mềm IMAS được áp dụng thống nhất trong toàn ngành, do đó nghiệp vụ tài chính kinh tế phát sinh được xử ký kịp thời. Từ đó mà công việc chỉ đạo, kiểm tra được thuận lợi hơn. Dựa trên các báo cáo kế vii toán lãnh đạo có thể nắm bắt được tình hình tài chính của đơn vị để có cơ chế điều hành và quản lý.  Tồn tại và nguyên nhân * Về quá trình lập, duyệt dự toán, phân bổ kinh phí và công tác quyết toán  Hàng năm, Chi cục Thuế lập dự toán lên Cục Thuế; Cục Thuế tổng hợp và lập lên Tổng cục Thuế; Tổng cục Thuế tổng hợp rồi gửi lên Vụ Kế hoạch Tài chính. Tuy nhiên, chất lượng lập dự toán chưa cao do các Chi cục Thuế và Cục Thuế các tỉnh, thành phố lập dự toán các khoản chi ngoài định mức chưa sát với thực tế, không mấy thuyết phục, chưa mang tính cụ thể.  Về công tác phân bổ dự toán: Công tác phân bổ dự toán của ngành Thuế thường được thực hiện nhiều lần trong một năm gây khó khăn cho đơn vị trong việc thanh quyết toán kinh phí được giao, đơn vị muốn sử dụng được kinh phí này lại phải làm tờ trình để xin xác nhận của Tổng cục Thuế là nguồn kinh phí năm nay.  Về công tác quyết toán kinh phí: chưa thực hiện đúng theo thời gian quy định * Về tổ chức bộ máy kế toán: Bộ máy kế toán tại các cấp trong ngành còn tồn tại một số vấn đề sau: Tại cơ quan Tổng cục Thuế: bộ máy kế toán chi cồng kềnh, theo dõi chưa tập trung ;tại Cục Thuế: Nhân sự tại phòng Tài vụ hầu hết đều thiếu (trừ một số Cục Thuế tỉnh, thành phố lớn); kế toán tổng hợp phải làm tất cả các khâu hạch toán dẫn đến việc ôm đồm nhiều công việc, báo cáo thường hay gửi muộn; tại Chi cục Thuế: trình độ cán bộ làm công tác kế toán tại các Chi cục chưa được tốt, chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ kế toán. Đôi khi ngành chỉ chú trọng đến quy trình nghiệp vụ về Thuế, ít chú trọng đến nâng cao nghiệp vụ kế toán. Toàn ngành chưa có đơn vị nào bổ nhiệm chức danh kế toán trưởng. viii * Về tổ chức vận dụng chế độ kế toán: Hiện nay, ngành Thuế chưa xây dựng được chế độ kế toán riêng cho ngành: kế toán chi áp dụng chế độ kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính nói chung nên đôi khi cũng gặp khó khăn vì ngành Thuế cũng có một số nét đặc thù riêng - Về hệ thống chứng từ kế toán: chưa có chứng từ đặc thù, công tác hạch toán kế toán và lập chứng từ thanh toán vẫn còn để xảy ra hiện tượng thanh toán trùng lắp. Việc kiểm tra công tác kế toán chưa được chú trọng nhiều, nếu có chỉ là trưởng phòng kế toán tiến hành kiểm tra đối chiếu một số nghiệp vụ bất kỳ. - Về hệ thống tài khoản kế toán: Một số đơn vị không mở tài khoản cấp II để theo dõi chi tiết từng loại Tài sản cố định. Hầu như các đơn vị không sử dụng tài khoản 152 – nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ để phản ánh tình hình mua sắm, cấp phát và sử dụng nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, văn phòng phẩm tại đơn vị. - Về hệ thống sổ kế toán: Hệ thống sổ trong kế toán thống kê còn hạn chế, mới có sổ theo dõi thu nộp thuế nên đôi khi việc hạch toán cũng chậm và khó khăn. Việc ghi sổ kế toán được thực hiện trên phần mềm kế toán, nhưng do thiếu sót ngay từ khâu đầu nên đôi khi sổ kế toán thiếu ngày mở sổ, thiếu số dư của các tài khoản năm trước chuyển sang, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh không được ghi chép thường xuyên. - Về hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống báo cáo tài chính của các đơn vị trong ngành Thuế được lập tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, việc lập thuyết minh báo cáo tài chính chưa được chi tiết và rõ ràng; một số đơn vị còn không tiến hành lập thuyết minh báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, báo cáo tình hình tăng giảm TSCĐ chưa phản ánh được chi tiết tình hình tăng, giảm TSCĐ, trích khấu hao tài sản cố định trong năm. * Về phần mềm kế toán: Chương trình phần mềm chưa đáp ứng được cơ chế phân bổ kinh phí: theo Quyết định giao dự toán thì các đơn vị được giao theo nội dung (Thanh ix toán cá nhân; Quản lý hành chính và nghiệp vụ chuyên môn; công nghệ thông tin và hiện đại hóa) nhưng phần mềm IMAS vẫn theo nội dung cũ là chi thường xuyên và không thường xuyên, làm cho việc lập báo cáo vẫn phải theo nội dung cũ. Đối với phần mềm quản lý tài sản (Hệ tác nghiệp quản lý tài sản phiên bản 1.0) mặc dù khi có biến động về tài sản, kiểm tra được báo cáo quyết toán khớp nhưng bất cập ở chỗ tính hao mòn không đúng. Kế toán lại phải tính hao mòn tài sản theo phương pháp thủ công. * Về vấn đề áp dụng kế toán quản trị: Việc áp dụng hệ thống kế toán quản trị không phải là vấn đề tồn tại riêng ở ngành Thuế mà còn là vấn đề bất cập ở các đơn vị HCSN. Các đơn vị hiện nay chưa có kế hoạch rõ ràng trong việc thu – chi (ngoài dự toán kinh phí ngân sách Nhà nước), không đánh giá được chính xác hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí. Có thể thấy, kế toán quản trị tại các đơn vị là một nhu cầu thực sự cần thiết, nhưng việc áp dụng mới đang ở mức giải quyết các vấn đề phát sinh đột xuất. Trong khuôn khổ của luận văn này, tôi xin đưa ra một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại ngành Thuế Việt Nam CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN TẠI NGÀNH THUẾ VIỆT NAM * Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các hoạt động của ngành Thuế phải đảm bảo các yêu cầu sau: Phải xây dựng được các định mức, tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với từng nội dung và tính chất công việc, phù hợp với thực tế; có như thế mới trở thành căn cứ pháp lý xác đáng phục vụ cho quá trình quản lý chi; phải xây dựng được quy trình lập, duyệt dự toán năm chặt chẽ, phù hợp với thực tế của đơn vị. x * Hoàn thiện về tổ chức bộ máy kế toán Việt Nam đã gia nhập WTO, để đáp ứng được yêu cầu mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Thuế phải cải cách thủ tục hành chính. Thực hiện yêu cầu đó, ngành Thuế đã triển khai cơ chế “một cửa” để giải quyết các thủ tục hành chính được nhanh gọn, kịp thời, thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp, tạo thuận lợi cho mọi đối tượng nộp thuế. Ngành Thuế nên bổ nhiệm chức danh kế toán trưởng đối với những người đang giữ chức vụ Trưởng phòng Tài vụ để thuận tiện trong việc làm việc với KBNN và một số công việc khác đòi hỏi chức danh kế toán trưởng. Ngành Thuế nên xây dựng bộ máy kế toán ở các cấp như sau: - Tại Tổng cục Thuế: Đề nghị thu gọn bộ máy kế toán để đỡ cồng kềnh: kế toán tiền mặt và kế toán chuyển khoản gộp lại thành 1 kế toán thanh toán chung; kế toán văn phòng phẩm, trang phục ngành, công cụ dụng cụ gộp lại thành một kế toán theo dõi chung; Bên cạnh đó, do nhiệm vụ dự toán rất quan trọng, cho nên Tổng cục nên phân công cho một cán bộ kế toán theo dõi dự toán kinh phí. - Tại Cục Thuế các tỉnh, thành phố: Do các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong nghiệp vụ chi tại các đơn vị tương đối nhiều, vấn đề lập và quyết toán kinh phí tương đối phức tạp nên cần phải bổ sung thêm nhân sự. Bộ máy kế toán được thiết kế như sau: Kế toán trưởng (Trưởng phòng Kế toán); Kế toán tổng hợp; Kế toán dự toán kinh phí (phụ trách việc lập, phân bổ dự toán toàn Cục Thuế); Kế toán theo dõi các Chi cục Thuế. Nếu Cục Thuế tỉnh, thành phố lớn có thể bổ sung thêm kế toán phần hành: kế toán thanh toán; kế toán tiền lương, BHXH; kế toán tài sản. - Tại Chi cục Thuế: Hầu hết các Chi cục Thuế mới có 01 kế toán phụ trách toàn bộ công tác hạch toán kế toán tại Chi cục. Đề nghị bổ sung thêm 01 kế toán và bổ nhiệm luôn chức danh kế toán trưởng. xi * Hoàn thiện về hệ thống tài khoản kế toán Phương hướng chính để hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán là phải xác định hệ thống tài khoản kế toán cấp I đầy đủ và căn cứ vào đặc điểm cụ thể của đơn vị để xây dựng hệ thống tài khoản cấp II, III để việc hạch toán được chính xác và rõ ràng. Để thuận tiện trong việc hạch toán, các đơn vị cần sử dụng thêm các tài khoản sau: Tài khoản 152 – nguyên liệu, vật liệu; TK 211- Tài sản cố định hữu hình; TK 213 - Tài sản cố định vô hình: Thực hiện phân loại tài sản cố định và mở đầy đủ các tài khoản cấp II của TK 211, 213 để theo dõi chi tiết từng loại tài sản theo quy định. Trên cơ sở đó để tính đúng, đủ khấu hao cho từng loại tài sản theo quy định; * Hoàn thiện về hệ thống chứng từ kế toán Kế toán thống kê mới chỉ sử dụng một số mẫu chứng từ, chưa có hệ thống chứng từ đầy đủ. Đề nghị Bộ Tài chính xây dựng hệ thống chứng từ để việc hạch toán được dễ dàng. Đối với phần hành kế toán chi: Để phù hợp với đặc thù của ngành Thuế, cần bổ sung thêm một số chứng từ sau: Dự toán kinh phí hội nghị: ( Mẫu số C.....-HD, phụ lục số 10 ); Quyết toán kinh phí hội nghị; Bảng thanh toán tiền trợ cấp khó khăn; Phiếu báo hỏng, mất tài sản cố định; Bảng kê thanh toán tiền xăng dầu; Giấy đề nghị (mẫu số C.-HD, Phụ lục số 11 ); Bảng tổng hợp chứng từ (Mẫu số C..- HD, Phụ lục số 12 ). * Hoàn thiện về hệ thống tổ chức sổ kế toán Các đơn vị trong ngành (Trừ cơ quan Tổng cục Thuế và Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh cần mở thêm “Bảng tổng hợp chi tiết nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, sản phẩm, hàng hóa” theo dõi quá trình nhập xuất, tồn kho của vật liệu, công cụ, dụng cụ. (theo mẫu số S23 – H (đã ban hành theo Quyết định số 19/2006/QĐ-BTC ngày 30/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), Phụ lục số 13) xii * Hoàn thiện về hệ thống báo cáo kế toán Do cơ chế quản lý tài chính đã có nhiều thay đổi từ cơ chế xin cho và phải quyết toán hết số kinh phí được giao chuyển sang cơ chế quản lý các đơn vị được tự chủ trong hoạt động chi tiêu của mình nên cuối năm số kinh phí được giao mà chưa sử dụng hết thì được phép chuyển sang năm sau. Vì vậy, để quản lý tốt số kinh phí còn lại này thì các đơn vị trong ngành cần sử dụng thêm một số báo cáo sau: + Báo cáo chi tiết kinh phí chuyển sang năm sau (phụ lục số 14 ) + Báo cáo nhập, xuất, tồn kho vật tư, hàng
Luận văn liên quan