Trong những năm gần đây, ngân hàng ĐT & PT Việt Nam thông qua
các hoạt động nói chung và hoạt động KDNT nói riêng đã góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như khẳng định vị thế
của Ngân hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên hoạt động
kinh doanh ngoại tệ tại NH&T&PT Việt Nam còn một số hạn chế cần sớm
được khắc phục như dịch vụ chưa đa dạng, hoạt động mua bán ngoại tệ
mới chỉ dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng là chủ yếu,
doanh số và lợi nhuận chưa cao, quản trị rủi ro trong hoạt động KDNT
chưa đạt chuẩn quốc tế Do vậy có thể nói hoạt động KDNT tại Ngân
hàng ĐT&PT Việt Nam vẫn chưa được đánh giá là phát triển và phần nào
ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động nói chung của Ngân hàng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên
chính thức của WTO, nhu cầu ngoại tệ ngày càng gia tăng, ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam khó có thể phát triển bền vững nếu không phát triển
hoạt động KDNT. Đề tài “Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu nhằm góp phần
đáp ứng đòi hỏi đó.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: “Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM”
Chương 2: “Thực trạng hoạt động KDNT tại ngân hàng ĐT&PT Việt
Nam”
Chương 3:“Giải pháp phát triển hoạt động KDNT tại ngân hàng ĐT&PT
Việt Nam
15 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, ngân hàng ĐT & PT Việt Nam thông qua
các hoạt động nói chung và hoạt động KDNT nói riêng đã góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như khẳng định vị thế
của Ngân hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên hoạt động
kinh doanh ngoại tệ tại NH&T&PT Việt Nam còn một số hạn chế cần sớm
được khắc phục như dịch vụ chưa đa dạng, hoạt động mua bán ngoại tệ
mới chỉ dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng là chủ yếu,
doanh số và lợi nhuận chưa cao, quản trị rủi ro trong hoạt động KDNT
chưa đạt chuẩn quốc tế Do vậy có thể nói hoạt động KDNT tại Ngân
hàng ĐT&PT Việt Nam vẫn chưa được đánh giá là phát triển và phần nào
ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả hoạt động nói chung của Ngân hàng.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên
chính thức của WTO, nhu cầu ngoại tệ ngày càng gia tăng, ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam khó có thể phát triển bền vững nếu không phát triển
hoạt động KDNT. Đề tài “Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu nhằm góp phần
đáp ứng đòi hỏi đó.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: “Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM”
Chương 2: “Thực trạng hoạt động KDNT tại ngân hàng ĐT&PT Việt
Nam”
Chương 3:“Giải pháp phát triển hoạt động KDNT tại ngân hàng ĐT&PT
Việt Nam”
ii
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại
Ngân hàng nói chung hay NHTM nói riêng là một phần quan trọng của
nền kinh tế hàng hoá, là động lực thúc đẩy nền sản xuất phát triển và là một
bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là những định chế trung gian tài chính với hoạt
động chủ yếu là nhận tiền gửi và hoàn trả, đầu tư cho vay; cung cấp các dịch
vụ ngân hàng; kinh doanh chứng khoán... Hoạt động NHTM với những đặc
trưng cơ bản như thế nên chịu tác động của nhiều yếu tố như: Môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ chế chính sách quản lý điều hành vĩ mô và
vi mô. Mà các yếu tố này có thể thay đổi để phù hợp với diễn biến thực tế
của nền kinh tế. Đặc biệt trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và toàn
cầu hoá như hiện nay, ngày càng làm gia tăng các nguy cơ rủi ro cho hoạt
động ngân hàng thương mại và khi rủi ro xảy ra thì hậu quả của nó sẽ rất
nặng nề. Chính vì vậy, hơn bất cứ tổ chức nào hoạt động của NHTM luôn
chịu sự giám sát chặt chẽ của Chính phủ, ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động chủ yếu như huy động
vốn, cho vay và đầu tư và các hoạt động cung cấp dịch vụ khác.
1.2. Hoạt động KDNT của Ngân hàng thƣơng mại
Kinh doanh ngoại tệ là hoạt động mua bán, đầu tư, cho vay hoặc đầu cơ
iii
ngoại tệ của các tổ chức tín dụng hoặc phi tín dụng được phép kinh doanh
ngoại hối và công ty lớn trên thị trường tài chính trong và ngoài nước với
mục đích phòng ngừa rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của một ngân hàng thương mại bao gồm
các giao dịch của ngân hàng trên thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ
trong và ngoài nước nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và phục vụ cho
chính bản thân ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của một ngân hàng thương mại là sự
tham gia của ngân hàng trên thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ. Là
thành viên quan trọng chi phối phần lớn khối lượng giao dịch trên cả hai thị
trường này, các ngân hàng thương mại đã sử dụng lãi suất và tỷ giá để thực
hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ với mục đích kiếm lời.
Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng thương mại là
việc tăng doanh số và lợi nhuận từ kinh doanh ngoại tệ thông qua việc mở
rộng phạm vi, tăng quy mô và số lượng dịch vụ nhưng vẫn đảm bảo mục
tiêu an toàn trong hoạt động kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu về số
lượng và chất lượng trong một thời kỳ nhất định.
Sự phát triển của hoạt động KDNT được đánh giá ở cả hai mặt mặt số
lượng và chất lượng.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngoại tệ về số lượng chủ yếu
được phản ánh qua hai tiêu chí: doanh số mua bán ngoại tệ và quy mô của
hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngoại tệ về chất lượng được
phản ảnh qua các tiêu chí như: lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh
ngoại tệ; tính kịp thời; mức độ chính xác an toàn trong hoạt động kinh
iv
doanh ngoại tệ.
1.3. Nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển hoạt động KDNT của NHTM
Sự phát triển hoạt động KDNT của NHTM phụ thuộc vào các nhân tố
thuộc về NHTM như quản trị rủi ro hối đoái; chính sách marketing của
NHTM; mô hình tổ chức của NHTM; trình độ chuyên môn và đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ KDNT; và sự phát triển của các hoạt động khác của
NHTM. Ngoài ra một số nhân tố bên ngoài cũng có thể tác động đến sự
phát triển của NHTM như: Chính sách Quản lý ngoại hối và chính sách
điều hành lãi suất của Ngân hàng trung ương; Diễn biến tình hình kinh tế -
chính trị - xã hội trong và ngoài nước.
v
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KDNT TẠI
NGÂN HÀNG ĐT&PT VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam được thành lập theo nghị định số
177/TTg ngày 26/04/1957 của thủ tướng Chính phủ. 50 năm qua ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam đã có những tên gọi:
- Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/04/1957
- Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 26/04/1981
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14/11/1990
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc
biệt, được tổ chức theo mô hình Tổng công ty Nhà nước (tập đoàn) mang
tính hệ thống thống nhất bao gồm hơn 112 chi nhánh và các Công ty trong
toàn quốc, có 4 đơn vị liên doanh với nước ngoài, hùn vốn với 5 tổ chức tín
dụng.
Trọng tâm hoạt động và là nghề nghiệp truyền thống của Ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam là phục vụ đầu tư phát triển, các dự án thực hiện các
chương trình phát triển kinh tế then chốt của đất nước. Thực hiện đầy đủ các
mặt nghiệp vụ của ngân hàng phục vụ các thành phần kinh tế, có quan hệ
hợp tác chặt chẽ với các Doanh nghiệp, Tổng công ty. Ngân hàng ĐT&PT
Việt Nam không ngừng mở rộng quan hệ đại lý với hơn 400 ngân hàng và
quan hệ thanh toán với trên 50 ngân hàng trên thế giới.
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam là một ngân hàng chủ lực thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia và phục vụ đầu tư phát triển. Quá trình 50 năm xây
vi
dựng, trưởng thành và phát triển luôn gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của
đất nước.
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Đầu tƣ
và Phát triển Việt Nam
2.2.1. Kết quả
Trong suốt quá trình hoạt động từ 2002 đến hết năm 2006, về cơ bản
doanh số mua bán ngoại tệ toàn hệ thống tăng trưởng tương đối đều. Việc
doanh số mua bán ngoại tệ vẫn tăng trưởng đều nhưng chênh lệch thu chi
năm từ năm 2003 đến 2005 sụt giảm là do thị trường ngày càng cạnh tranh
gay gắt, khoảng cách giữa giá mua và giá bán ngày càng thu hẹp đồng thời
năm 2005 doanh số mua bán EUR phục vụ khách hàng giảm đi đáng kể; thị
trường USD/VND diễn biến tương đối ổn định; chênh lệch giữa giá mua và
giá bán thường xuyên ở mức 2 điểm trong khi các giao dịch của BIDV tập
trung phần lớn vào cặp tiền tệ này; Tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân
hàng cho cặp đồng tiền USD/VND có xu hướng tăng ổn định ở mức khoảng
1%/năm; Đồng thời do trong năm phát sinh một số giao dịch swap
USD/VND theo chiều mua/bán để đẩy tiền VND ra thị trường liên ngân
hàng làm tăng lãi đầu tư tiền gửi VND nhưng lại thể hiện lỗ kinh doanh
ngoại tệ do mua cao bán thấp. Nhưng xét tổng thể BIDV vẫn đảm bảo có lãi
đối với giao dịch này.
Mặc dù phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức được
phép kinh doanh ngoại hối nhưng do thực hiện khá tốt công tác chăm sóc và
tiếp cận khách hàng nên trong thời gian qua, doanh số mua bán ngoại tệ của
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam vẫn tăng trưởng đều, chiếm khoảng 17% đến
24% kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Thu từ hoạt động KDNT của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã góp
vii
phần không nhỏ vào tổng thu dịch vụ của toàn hệ thống, chiếm từ 14% đến
32% tổng doanh thu qua các năm.
Qua đây, ta thấy tầm quan trọng của hoạt động KDNT đối với sự phát
triển của hệ thống ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Hoạt động KDNT phát
triển góp phần vào sự phát triển chung của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Phát triển hoạt động KDNT là mục tiêu của mọi NHTM hiện đại nói chung
và của Ngân hàng Đầu tư nói riêng.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn rất mới đối với nhiều NHTM Việt
nam. Tại Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, tuy thực trạng hoạt động KDNT
còn tồn tại một số mặt hạn chế do các nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách
quan song phải thừa nhận rằng để có được thực trạng như hiện nay đã là một
thành tích đáng kể. Chỉ riêng con số 92 tỷ đồng chênh lệch thu chi, chiếm
23% tổng thu dịch vụ của toàn hệ thống trong năm 2006 mà phòng Kinh
doanh tiền tệ (hiện chỉ gồm 20 nhân viên đảm nhiềm nhiều mảng nghiệp vụ)
đem lại cho Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam đã rất đáng được biểu dương.
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế toàn cầu, Việt nam đang trong tiến
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế, từng bước tự do hoá
thương mại và tiến tới tự do hoá tài chính. Thị trường tài chính Việt nam rất
sơ khai như hiện nay đang dần phát triển. Trước hết, các nghiệp vụ phái sinh
như FORWARD và SWAP, OPTION đã dần được sử dụng rộng rãi như
những công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái và tăng thu cho cả Ngân hàng và
khách hàng.
Để chuẩn bị tư thế đón nhận những thách thức mới, ngay từ bây giờ
Ngân hàng ĐT&PT Việt nam phải có kế hoạch phát triển hoạt động kinh
doanh ngoại tệ của mình. Chỉ có liên tục tự hoàn thiện và phát triển thì Ngân
hàng mới giữ được vị thế dẫn đầu hiện nay trên thị trường liên ngân hàng và
viii
đồng thời góp sức mình cùng Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan hữu quan
khác thúc đẩy tiến độ xây dựng một thị trường tài chính hoàn chỉnh tại Việt
nam.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, hoạt động KDNT
của ngân hàng ĐT&PT Việt Nam chưa thể coi là phát triển vì vẫn còn một
số hạn chế như doanh số và lợi nhuận chưa cao so với lợi thế của ngân hàng;
giao dịch mua bán ngoại tệ vẫn còn độ trễ nhất định; hoạt động KDNT vẫn
có khả năng xảy ra rủi ro.
2.2.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của BIDV bắt đầu được triển khai từ năm
1996. Đến năm 2000, BIDV chủ yếu mới chỉ triển khai nghiệp vụ mua bán
ngoại tệ giao ngay để phục vụ khách hàng xuất nhập khẩu. Số lượng cán bộ
thực hiện nghiệp vụ này rất ít, mới chỉ có 2 cán bộ tại HSC. Mặc dù đã được
trang bị được hệ thống giao dịch và màn hình tin của Reuters phục vụ hoạt
động giao dịch nhưng chưa có hệ thống phần mềm theo dõi quản lý các giao
dịch. Kinh doanh ngoại tệ mới chỉ là một bộ phận trong phòng Nguồn vốn
tại HSC.
Tuy nhiên, chỉ đến năm 2000 bộ phận kinh doanh tiền tệ mới được tách
ra hoạt động như 01 phòng độc lập tiếp đó sát nhập thành một phòng trong
Ban nguồn vốn kinh doanh tiền tệ, nghiệp vụ KDTT mới thực sự được quan
tâm, liên tục phát triển theo hướng thị trường và ngày càng trở thành một
trong những hoạt động mũi nhọn của BIDV.
Chức năng của Phòng Kinh doanh tiền tệ, ngoài việc quản lý trạng thái
ix
ngoại tệ toàn hệ thống theo đúng quy định của Ngân hàng nhà nước, thưc
hiện giao dịch mua bán trên thị trường liên Ngân hàng, khách hàng và chi
nhánh, luôn đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng tại chi nhánh, thực hiện
quản lý chi nhánh thông qua việc kiểm soát trạng thái ngoại tệ, cấp giấy
phép thu đổi ngoại tệ mặt, giấy phép kinh doanh ngoại tệ giao ngay, kỳ hạn,
hoán đổi, quyền chọnvà kiểm soát việc chấp hành văn bản chế độ quản lý
ngoại hối của Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng như của Ngân hàng
ĐT&PT Trung ương. Phòng kinh doanh tiền tệ còn đảm nhiệm việc quản lý
và đầu tư nguồn ngoại tệ nhàn rỗi một cách hiệu quả, đảm bảo thanh khoản
cho toàn hệ thống đồng thời tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh đầu tư
tiền gửi nhằm tận thu cho BIDV. Đến hết năm 2006, hầu hết các chi nhánh
có thu nhập từ hoạt động mua bán ngoại tệ, trong đó, khoảng 73% chi nhánh
tăng trưởng về doanh số; 55% chi nhánh tăng trưởng về lợi nhuận.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng hoạt động KDNT
của ngân hàng ĐT&PT Việt Nam vẫn chưa được coi là phát triển. Đó là do:
Thứ nhất, hoạt động tự doanh chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, công tác marketing chưa mang tính chuyên nghiệp
Thứ ba, hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng chưa hoàn thiện.
Thứ tư, quy định, quy trình trong hoạt động KDNT đang trong quá
trình hoàn thiện.
Thứ năm, Hệ thống văn bản quản lý ngoại hối của Chính phủ và NHNN
chưa hoàn chỉnh.
Thứ sáu, tỷ giá và lãi suất trên thị trường trong và ngoài nước thường
xuyên biến động
Thứ bảy, Cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM.
x
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƢ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.1. Định hƣớng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân
hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
3.1.1 Định hƣớng chung
Thứ nhất, phát huy lợi thế kinh doanh, để phát triển nền khách hàng ổn
định như các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, và dân cư để đẩy mạnh cung ứng sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng và phát triển các
dịch vụ, sản phẩm hiện có. Nghiên cứu triển khai các dịch vụ, tiện ích mà
khách hàng cần và ngân hàng ĐT & PT Việt Nam có điều kiện thực hiện
ngay trên nền tảng dự án Hiện đại hóa.
Thứ hai, nghiên cứu để ứng dụng những dịch vụ mang tính định hướng
cho thị trường, trên cơ sở đầu tư về công nghệ, đưa ra các dịch vụ có chất
lượng cao, nhằm tạo sức mạnh ổn định trong lĩnh vực huy động vốn, tăng
khả năng huy động nguồn vốn dài hạn. Phát triển đa dạng hoá các dịch vụ
ngân hàng, đặc biệt chú trọng đến các kênh phân phối ngân hàng hiện đại.
Thứ ba, đến 2010 chất lượng dịch vụ của Ngân hàng ĐT&PT Việt
Nam tương đương các ngân hàng lớn của các quốc gia trong khu vực, góp
phần tăng năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế.
xi
3.1.2.Định hƣớng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của
Ngân hàng Đầu tƣ và phát triển Việt nam
Thứ nhất, không ngừng tăng doanh số và lợi nhuận trong hoạt động
KDNT trên cơ sở đáp ứng tối đa nhu cầu thanh toán, trả nợ vaycủa khách
hàng đồng thời đẩy mạnh hoạt động tự doanh (đầu cơ).
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu và giới thiệu các dịch vụ KDNT mới đáp
ứng nhu cầu của khách hàng trong nước.
Thứ ba, hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động KDNT theo tư vấn của
TA.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống quản lý hoạt động KDNT theo chuẩn quốc
tế.
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng
Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam
3.2.1. Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động tự doanh
Hiện nay, hoạt động tự doanh của ngân hàng gần như chưa được
khuyến khích. Bởi lẽ công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý rủi ro,
chưa có cơ chế thưởng phạt rõ ràng đối với kết quả lãi lỗ kinh doanh ngoại
tệ. Bước đầu dealer cũng được giao hạn mức giao dịch nhưng phải đảm bảo
không phát sinh lỗ trong mọi trường hợp. Mặc dù đã chủ động hơn trong
việc ra quyết định kinh doanh nhưng thực chất dealer mới chỉ thực hiện
công việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng và luôn phải đảm bảo có lãi.
Điều này giúp hạn chế tối đa rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của
ngân hàng nhưng đôi khi lại bỏ lỡ cơ hội kinh doanh có thể giúp ngân hàng
thu được những khoản lợi nhuận không nhỏ. Để đảm bảo an toàn trong kinh
doanh nhưng vẫn khuyến khích hoạt động KDNT của ngân hàng phát triển,
ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cần xây dựng hạn mức dừng lỗ cho dealer để
xii
họ có thể chủ động tự kinh doanh trong phạm vi được phép. Khi nhận thấy
khoản ngoại tệ mình đang nắm giữ với mục đích đầu cơ chờ tỷ giá biến
động theo hướng dự đoán có lợi cho ngân hàng có dấu hiệu đảo chiều, theo
hướng bất lợi, dealer có thể quyết định bán ngoại tệ trong hạn mức lỗ được
cấp phép.
Ngoài ra, ngân hàng nên có cơ chế thưởng phạt rõ ràng đối với kết quả
kinh doanh của cán bộ kinh doanh tiền tệ(dealer). Để dealer có thể phát huy
hết khả năng của mình họ cần được ngân hàng giao cho quyền tự quyết
trong phạm vi cho phép. Họ có thể hoàn toàn tự do ra quyết định mua hay
bán ở mức tỷ giá mà họ cho là có lợi, miễn sao cuối kỳ báo cáo đảm bảo
mức doanh số và lợi nhuận được giao. Thật ra, những dealer được hoàn toàn
chủ động trong kinh doanh thưởng phải chịu sức ép nặng nề trong việc hoàn
thành kế hoạch, đặc biệt kế hoạch năm sao bao giờ cũng cao hơn kế hoạch
năm trước. Và để trở thành dealer “thiện chiến”, cán bộ kinh doanh ngoại tệ
luôn phải tự trau dồi kiến thức, cập nhật thông tin và nhạy bén hơn trong
kinh doanh.
Có thể nói hoạt động tự doanh (đầu cơ - duy trì trạng thái mở) kết hợp
với các biện pháp phòng ngừa rủi ro phù hợp có thể giúp NHTM thu được
lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh tại ngân hàng ĐT&PT Việt
Nam chưa thực sự được khuyến khích phát triển là do những hạn chế về mặt
mô hình tổ chức, công nghệ
3.2.2. Thành lập bộ phận Marketing chuyên trách
Hiện nay, việc nghiên cứu phát triển sản phẩm mới tại ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam chủ yếu do cán bộ phòng kinh doanh ngoại tệ chủ động
nghiên cứu. Việc cán bộ vừa thực hiện kinh doanh vừa chịu trách nhiệm
nghiên cứu phát triển dịch có những thuận lợi nhưng cũng gặp phải một vài
khó khăn nhất định.
xiii
Đối với cán bộ trực tiếp kinh doanh ngoại tệ, việc tham gia nghiên cứu
phát triển dịch vụ mới không chỉ là trách nhiệm mà còn là quyền lợi. Tuy
nhiên, để đảm bảo chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng, ngân hàng
cần có bộ phận chuyên trách nghiên cứu, giới thiệu nhân rộng dịch vụ của
mình đến khách hàng. Trong trường hợp cần thiết có thể tham khảo ý kiến
của dealer về tình hình thị trường hay nhu cầu cầu khách hàng như thế nào
để có định hướng phát triển chung. Một dịch vụ mới sẽ chỉ phát triển khi
được khách hàng chấp nhận và tin dùng. Muốn vậy, ngân hàng phải có đội
ngũ cán bộ vừa am hiểu nghiệp vụ vừa có khả năng tiếp cận, thuyết phục
khách hàng tin tưởng và sử dụng dịch vụ của mình.
3.2.3. Tăng cƣờng quản trị rủi ro trong hoạt động KDNT
Ngân hàng cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống quản lý hoạt động
KDNT; Thường xuyên cập nhật và phổ biến thông tin thị trường cho cán bộ
trong toàn hệ thống; Phòng ngừa rủi ro hối đoái thông qua các dịch vụ phái
sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, giao dịch quyền chọn, giao
dịch hoán đổi tiền tệ
3.2.4. Hoàn thiện, thống nhất quy trình, quy định áp dụng trong
toàn hệ thống
Hoạt động KDNT sẽ phát triển hơn nếu có quy trình, quy định thống
nhất trong toàn hệ thống. Mặc dù, đã rất tích cực trong công tác ban hành
văn bản hướng dẫn thực hiện hoạt động KDNT song ngân hàng ĐT&PT
Việt Nam đến nay vẫn chưa hoàn thiện quy trình KDNT, mới chỉ dừng lại ở
quy định tạm thời; Việc soạn thảo văn bản hướng dẫn thực hiện một số Nghị
định, Thông tư của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước còn chậm chạp.
Trước mắt ngân hàng ĐT&PT Việt Nam cần nhanh chóng ban hành văn bản
hướng dẫn thực hiện nghị định 160 của chính phủ để chi nhánh có căn cứ
thực hiện.
xiv
3.3.Kiến nghị
Kiến nghị với Chính phủ
- Tiếp tục tiến hành sắp xếp lại hệ thống Ngân hàng, đẩy nhanh quá
trình cổ phần hoá các NHTMNN đồng thời gắn liền với việc niêm yết cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán để phân tán rủi ro và đổi mới cơ cấu dịch
vụ;
- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh việc sử dụng các
giấy tờ có giá như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại hối phiếu,
kỳ phiếu củ