Tóm tắt Luận văn Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak

Với chức năng trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng chính là kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn cho những nơi cần vốn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh trong huy động vốn ngày càng gay gắt, để có nguồn vốn đủ mạnh, các ngân hàng thương mại phải thực hiện nhiều hoạt động nhằm huy động được nguồn vốn đủ lớn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng, nhưng nói như vậy không có nghĩa là huy động vốn một cách không tính toán mà phải đảm bảo hiệu quả huy động vốn. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh DakLak là một trong những chi nhánh mà huy động vốn chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn, thêm vào đó, tỉnh DakLak là một tỉnh tuy nhỏ, nguồn vốn khan hiếm nhưng số lượng ngân hàng thương mại lại rất đông đúc, chính sách huy động vốn của chi nhánh còn phụ thuộc nhiều vào sự quản lý, điều tiết của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước tỉnh DakLak. Vì vậy, để phát triển hoạt động kinh doanh và có được nguồn vốn tốt đặc biệt là các nguồn vốn nhàn rỗi còn nằm rải rác trong dân cư nhằm phục vụ cho đầu tư phát triển tại địa phương, việc tìm ra các giải pháp để vừa tăng trưởng vừa đảm bảo hiệu quả trong huy động vốn là cực kỳ khó khăn nhưng hết sức cần thiết đối với chi nhánh. Đây chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak”.

pdf11 trang | Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i TÓM TẮT LUẬN VĂN Lời mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu: Với chức năng trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng chính là kênh thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn cho những nơi cần vốn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh trong huy động vốn ngày càng gay gắt, để có nguồn vốn đủ mạnh, các ngân hàng thương mại phải thực hiện nhiều hoạt động nhằm huy động được nguồn vốn đủ lớn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng, nhưng nói như vậy không có nghĩa là huy động vốn một cách không tính toán mà phải đảm bảo hiệu quả huy động vốn. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh DakLak là một trong những chi nhánh mà huy động vốn chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn, thêm vào đó, tỉnh DakLak là một tỉnh tuy nhỏ, nguồn vốn khan hiếm nhưng số lượng ngân hàng thương mại lại rất đông đúc, chính sách huy động vốn của chi nhánh còn phụ thuộc nhiều vào sự quản lý, điều tiết của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước tỉnh DakLak. Vì vậy, để phát triển hoạt động kinh doanh và có được nguồn vốn tốt đặc biệt là các nguồn vốn nhàn rỗi còn nằm rải rác trong dân cư nhằm phục vụ cho đầu tư phát triển tại địa phương, việc tìm ra các giải pháp để vừa tăng trưởng vừa đảm bảo hiệu quả trong huy động vốn là cực kỳ khó khăn nhưng hết sức cần thiết đối với chi nhánh. Đây chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak”. 2. Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại, và hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại.Giới thiệu sơ lược về BIDV và chi nhánh DakLak, tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh DakLak giai đoạn 2008-2010 trong đó đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đề ra các giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn (chủ yếu là nguồn tiền gửi của khách hàng) một cách hiệu quả nhất tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak. ii Chương 1: Cơ sở lý luận về tăng cường huy động vốn của ngân hàng thương mại 1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại: Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán đồng thời thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Căn cứ vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và ngân hàng nhà nước. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại bao gồm cho vay, huy động vốn, thanh toán, đầu tư, quản lý ngân quỹ, mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, tài trợ cho chính phủ, bảo lãnh, cho thuê tài chính, uỷ thác tư vấn, bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán, các dịch vụ đại lý 1.2 Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại: Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn của ngân hàng thương mại, trong đó, các ngân hàng thực hiện các biện pháp tìm kiếm và thu hút các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Với vai trò quan trọng như vậy, huy động vốn trong ngân hàng phải đảm bảo các mục tiêu: tạo ra nguồn vốn đủ lớn đáp ứng quy mô cho vay và đầu tư, tìm kiếm cơ cấu nguồn vốn có chi phí thấp nhất và phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng, và hướng tới phát triển các công cụ nợ mới. Nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, tiền gửi của khách hàng, nguồn vốn vay, tiền ủy thác, tiền trong thanh toán Các chỉ tiêu phản ánh kết quả huy động vốn của ngân hàng thương mại bao gồm quy mô và tốc độ tăng trưởng huy động vốn, cơ cấu huy động vốn, chi phí huy động vốn, kỳ hạn huy động vốn, thị phần huy động vốn và tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động vốn. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn rất đa dạng như quy mô vị thế chiến lược kinh doanh của ngân hàng kết quả của hoạt động huy động vốn (số lượng và chất lượng) trước đây cũng như chính sách huy động vốn của ngân hàng hiện tại và tương lai, môi trường về chính trị, pháp luật, kinh tế, công nghệ, địa lý, dân số, văn hoá xã hội. iii Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak giai đoạn 2008-2010 2.1 Khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển DakLak được thành lập theo quyết định số 105/QĐ-NH ngày 16/11/1990 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), có con dấu riêng cung cấp các dịch vụ huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của các cá nhân, tổ chức kinh tế dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán, phát hành các loại giấy tờ có giá, cho vay thương mại, vay tiêu dùng, vay đồng tài trợ, vay thấu chi, bảo lãnh, dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước với các sản phẩm đa dạng, có tính cạnh tranh cao; và nhiều dịch vụ khác như đầu tư tiền gửi tự động, trả lương qua thẻ; thu tiền đại lý, thanh toán hóa đơn, mua bán ngoại tệ bằng các hợp đồng giao ngay, kỳ hạn, tương lai, quyền chọn, hoán đổi..., dịch vụ thẻ ATM, Visa, Banknet, BSMS, VnTopup, Direct Banking, đại lý nhận lệnh chứng khoán, đại lý giao dịch cà phê tương lai, đại lý WU. Trong giai đoạn 2008-2010, trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế nước nhà, BIDV DakLak đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và linh hoạt để làm sao có thể đạt được kết quả kinh doanh tốt nhất cụ thể: số dư huy động vốn và dư nợ tín dụng tăng liên tục, tỉ trọng cho vay có tài sản đảm bảo tăng nhanh, tỷ lệ nợ xấu luôn duy trì dưới 2%, thu hồi được gần 67 tỷ đồng nợ hạch toán ngoại bảng, thu dịch vụ ròng tăng từ 19 tỷ đồng năm 2008 lên 28 tỷ đồng năm 2009 và 25 tỷ đồng năm 2010, lợi nhuận trước thuế tăng từ 39 tỷ đồng năm 2008 lên 54 tỷ đồng năm 2010, tổng quỹ dự phòng của chi nhánh tại thời điểm 31/12/2010 đạt 59 tỷ đồng, tổng tài sản tăng liên tục qua các năm, ROA thấp 1,41% và thấp hơn so với mức bình quân chung của ngành (khoảng 2%), tuy vậy ROA năm 2010 đã tăng đáng kể so với các năm trước đó. iv 2.2 Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak giai đoạn 2008-2010 Về hoạt động huy động vốn, hình thức huy động vốn tại chi nhánh khá đa dạng gồm: Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) của các tổ chức kinh tế, TCTD, và các cá nhân trong và ngoài nước bằng ngoại tệ và VND; Huy động tiền gửi có kỳ hạn chủ yếu từ các tổ chức kinh tế, TCTD, trong và ngoài nước bằng ngoại tệ và VND; Huy động tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân trong và ngoài nước bằng ngoại tệ và VND; Phát hành giấy tờ có giá đối với các tổ chức và cá nhân bằng USD, VND. Quy mô huy động vốn tuy tăng liên tục nhưng thị phần huy động vốn còn tương đối thấp chỉ khoảng gần 10%. Về cơ cấu huy động vốn, huy động vốn từ dân cư có chuyển biến tích cực từ mức chiếm tỷ trọng 47,7% năm 2008 đến năm 2010 đã chiếm tỷ trọng 59,3% trong tổng nguồn vốn huy động; cơ cấu huy động giữa tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn của chi nhánh đã chuyển biến tích cực qua các năm, từ năm 2008 trở về trước, tiền gửi thanh toán không kỳ hạn thường chiếm trên 50%, năm 2009 chỉ còn chiếm 46,2% và năm 2010 tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn còn 32,5% và tiền gửi có kỳ hạn chiếm 67,5%. Kết quả này là một quá trình hướng dẫn khách hàng, đặc biệt là nhóm khách hàng doanh nghiệp thực hiện cam kết duy trì số dư tiền gửi, bên cạnh đó, chi nhánh đã quan tâm tiếp thị và chăm sóc một số khách hàng không có quan hệ tín dụng tại chi nhánh, nhưng luôn có một lượng tiền gửi nhất định như các chùa, hiệp hội, hợp tác xã, các ban, các qũy,trên địa bàn tỉnh DakLak. Huy động vốn dân cư tăng trưởng tốt cũng là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguồn vốn huy động có kỳ hạn, giúp cải thiện cơ cấu huy động. Trong tổng nguồn vốn huy động, nguồn vốn huy động chủ yếu là từ VND, tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ rất thấp, chỉ chiếm khoảng 9% trong tổng vốn huy động. Nguồn vốn huy động của chi nhánh trong giai đoạn 2008-2010 tăng và chủ yếu là từ nguồn tiền có kỳ hạn bằng VND từ dân cư, nguồn tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức cũng tăng nhưng không đáng kể, từ đó có thể thấy nguồn huy động vốn của chi nhánh đang chuyển biến theo hướng tích cực và ổn định hơn, điều này sẽ giúp chi nhánh chủ động hơn trong công tác sử dụng vốn và lập kế hoạch kinh v doanh hàng năm. Chi phí trả lãi tiền gửi có sự thay đổi liên tục trong giai đoạn 2008-2010, năm 2008 chi phí trả lãi tăng lên rất nhiều so với các năm trước đó, chi phí trả lãi lên tới 51,83 tỷ đồng, lãi suất huy động bình quân 8,43%, đây là kết quả của cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng, năm 2009, cùng với sự phục hồi của nền kinh tế lãi suất huy động bình quân trở về còn 5,42%, giảm 35,67% so với năm 2008 trong đó huy động vốn bình quân tăng 222 tỷ so với năm 2008 (tương đương khoảng 36%) nhưng chi phí trả lãi tiền gửi giảm 6,45 tỷ (tương đương khoảng 12%), năm 2010, trong 10 tháng đầu năm, lãi suất tiền gửi tiết kiệm VND luôn ở mức không quá 11%/năm, tuy lãi suất ổn định, nhưng tình hình huy động vốn của hầu hết các ngân hàng gặp khó khăn, tình trạng cũ như năm 2008 đã xuất hiện trở lại, lãi suất huy động tại BIDV DakLak cũng tăng lên, nên mặc dù huy động vốn bình quân tăng 24% (tương đương 201 tỷ đồng) nhưng chi phí huy động vốn tăng 79% (tương đương 35,95 tỷ đồng), điều này làm cho lãi suất huy động vốn tăng 45% và lên mức 7,84%. Lãi suất huy động bình quân của BIDV DakLak tương đối thấp một phần do nguồn huy động của BIDV DakLak chủ yếu là nguồn ngắn hạn, có thể coi đây là lợi thế của BIDV DakLak vì chi phí cho nguồn này thường rẻ hơn so với nguồn trung dài hạn hay nguồn huy động từ khách hàng cá nhân, TCTD, mặt khác, cũng có thể nói đây là điểm yếu của BIDV DakLak trong công tác huy động nguồn vốn trung dài hạn. Về sự cân đối giữa hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn, trong tổng nguồn vốn huy động tại chi nhánh, nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ lệ rất cao trên 90%, nguồn vốn huy động trung dài hạn chỉ khoảng 10%, trong khi đó dư nợ tín dụng ngắn hạn chỉ chiếm khoảng 50%-60%, dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm đến 40%-50%, nếu giả sử toàn bộ dư nợ cho vay trung dài hạn tại chi nhánh sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn tại chỗ thì tỷ lệ này rất cao, cao hơn rất nhiều so với quy định của NHNN (năm 2008-2009 là 40%, năm 2010 là 30%), nếu không phải là một chi nhánh của BIDV, không có nguồn vốn vay với lãi suất thấp từ Hội sở chính thì sự an toàn của chi nhánh không thể đảm bảo vì nhìn vào số liệu, không thấy có sự cân đối giữa huy động và cho vay kể cả về số dư lẫn kỳ hạn. Do đó, việc tăng cường huy động vốn tại chỗ đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn rất vi quan trọng, với cơ chế quản lý vốn tập trung của BIDV, nếu nguồn vốn huy động tại chỗ của chi nhánh tăng thì phần thu nhập mua vốn của BIDV trung ương trả cho chi nhánh tăng, điều này sẽ giúp chi nhánh tăng lợi nhuận hàng năm, từ đó tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên tại chi nhánh. 2.3 Đánh giá hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak giai đoạn 2008-2010 Công tác huy động vốn của chi nhánh đạt được những kết quả như trên là nhờ một số nguyên nhân sau: chi nhánh thực hiện chính sách phát triển hài hòa, trong đó ưu tiên, đẩy mạnh phát triển ngân hàng bán lẻ đồng thời làm việc với các doanh nghiệp lớn nhằm khai thác tối đa nguồn tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, chỉ tiêu huy động vốn được phân giao đến từng phòng, từng cán bộ nên việc theo dõi, duy trì mối quan hệ giữa cán bộ ngân hàng nói chung và khách hàng tiền gửi gắn bó chặt chẽ hơn; các bộ phận, các khối tại chi nhánh đã phối hợp tốt trong công tác huy động vốn; hệ thống BIDV đã kịp thời, nhanh nhạy với diễn biến thị trường, có những phản ứng linh hoạt trong chính sách lãi suất theo hướng giao dần sự chủ động cho chi nhánh thông qua cơ chế lãi suất mua vốn và bán vốn tập trung FTP; công tác chăm sóc khách hàng, cải thiện chất lượng dịch vụ cũng được quan tâm hơn, tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi và hậu mãi; sản phẩm huy động vốn đa dạng phù hợp với từng thời kỳ, những giai đoạn cần thiết có các sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn ngắn theo tuần, tiết kiệm rút dần; chú trọng tới công tác phát triển mạng lưới, thực hiện đóng cửa những điểm giao dịch hoạt động không hiệu quả và nâng cấp những điểm giao dịch hiệu quả một cách kịp thời. Bên cạnh đó, hoạt động huy động vốn vẫn còn một số hạn chế, nguyên nhân: Từ phía chi nhánh: việc thực hiện chính sách duy trì số dư tiền gửi của daonh nghiệp chưa quyết liệt; các sản phẩm huy động, chương trình khuyến mãi huy động vốn chủ yếu phụ thuộc vào các BIDV trung ương; công tác phát triển sản phẩm dịch vụ mới còn chậm gắn liền với sản phẩm tiền gửi chưa phát huy hết tiện ích các sản phẩm dịch vụ mới; việc điều hành kế hoạch kinh doanh vẫn còn tập trung từ Ban lãnh đạo, các bộ phận chưa thực sự chủ động; năng lực và trình độ của đội ngũ nhân vii viên còn hạn chế, đội ngũ nhân viên tuy trẻ, nhanh nhẹn nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, các chi nhánh và phòng giao dịch mới được thành lập, nhân sự không đáp ứng kịp thời, hầu hết các quầy giao dịch là nhân viên mới vừa học vừa giao tiếp khách hàng nên phong cách phục vụ hầu như không chuẩn, tốc độ xử lý yêu cầu khách hàng chưa nhanh, chức năng tư vấn khách hàng chưa được chú trọng, phần lớn các nhân viên giao dịch chưa nhận thức được việc bán sản phẩm cho khách hàng là việc trọng tâm, kỹ năng mời chào khách hàng còn hạn chế. Hơn nữa, hiệu quả đào tạo tại chi nhánh chưa cao, hầu như cám bộ công nhân viên thường tự nghiên cứu qua văn bản, do đó dẫn đến nhiều cản trở trong quá trình bán sản phẩm. Từ phía BIDV trung ương : BIDV đã cung cấp thêm một số sản phẩm huy động mới nhưng các sản phẩm này vẫn chưa thể hiện được tiện ích nổi bật so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh ; chính sách huy động vốn trung và dài hạn của BIDV chưa thực sự hấp dẫn người gửi ; việc áp dụng biểu lãi suất của BIDV được thực hiện nhất quán ở tất cả các chi nhánh trên toàn hệ thống, các chi nhánh không được tự đưa ra lãi suất. Nguyên nhân khách quan khác: do đặc điểm của địa bàn, DakLak là tỉnh đang phát triển, nhu cầu vốn rất lớn trong khi hệ số sử dụng vốn trên vốn huy động còn quá cao (khoảng 2,7), doanh nghiệp trên địa bàn chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn hạn chế, hoạt động kinh doanh phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay ngân hàng; số lượng công ty xuất nhập khẩu tại DakLak có nhưng không nhiều; trong giai đoạn 2008-2010, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức mới, Ngân hàng Nhà nước Việt nam duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khống chế dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy động vốn ; sự xuất hiện của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn ngày càng nhiều đã ảnh hưởng không nhỏ tới thị phần của các chi nhánh mở trước đó; đại đa số người dân Việt Nam vẫn còn thanh toán bằng tiền mặt, điều này cũng ảnh hưởng một phần đến việc huy động vốn từ các tầng lớp dân cư. viii Chương 3 - Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak 3.1 Định hướng phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh DakLak Chi nhánh DakLak luôn lấy an toàn, chất lượng và hiệu quả bền vững làm mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh, thực hiện tốt phương châm hoạt động của BIDV (Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV, Chia sẻ cơ hội- Hợp tác thành công); và mục tiêu hoạt động của BIDV là trở thành ngân hàng chất lượng – uy tín hàng đầu tại Việt Nam với chính sách kinh doanh Chất lượng – tăng trưởng bền vững – hiệu quả an toàn. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân hàng năm tối thiểu từ 25%-30%. Tiếp tục mở rộng quan hệ với khách hàng để thu hút tiền gửi cả VND và các loại ngoại tệ, ưu tiên phát triển các khách hàng doanh nghiệp truyền thống, tiếp tục duy trì tốt mối quan hệ với các định chế tài chínhvà các khách hàng doanh nghiệp doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp đến là phát triển khách hàng cá nhân kể cả các khách hàng có thu nhập thấp, chuyển dịch cơ cấu huy động theo hướng tăng dần tỷ trọng tiền gửi trung dài hạn. Ưu tiên triển khai các chương trình huy động vốn từ dân cư với sản phẩm đa dạng, chính sách phù hợp, đảm bảo tốc độ tăng trưởng huy động vốn từ dân cư là 30-35%. 3.2 Giải pháp Xây dựng cơ chế lãi suất huy động vốn linh hoạt: lãi suất huy động đưa ra phải căn cứ vào mức độ cần thiết của nguồn vốn, tùy theo từng thời điểm, từng khu vực và phải phù hợp với khung lãi suất do ngân hàng nhà nước và Hội sở chính quy định, đảm bảo khả năng cạnh tranh, vừa thu hút được khách hàng, vừa đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. Sáng tạo trong việc sử dụng các sản phẩm của BIDV, kết hợp tốt các sản phẩm dịch vụ đi kèm với các sản phẩm huy động vốn. Tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, chăm sóc khách hàng, lựa chọn hình thức truyền thông cho phù hợp và hiệu quả, luôn biết lắng nghe và quan tâm đến khách ix hàng. Mở rộng, đa dạng hóa khách hàng vì điều này không những giúp ngân hàng gia tăng lượng khách hàng mà còn giúp ngân hàng có thể giảm rủi ro đồng thời giúp ngân hàng có cơ cấu vốn hợp lý hơn. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ để góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng và tạo được hình ảnh thân thiện trong lòng khách hàng, đặc biệt là tại chi nhánh đội ngũ nhân viên đa phần còn trẻ, năng động, nhiệt tình, khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại tốt nhưng bên cạnh đó họ còn thiếu kinh nghiệm thực tế và kiến thức chuyên sâu. Thực hiện tốt công tác quản trị điều hành, phổ biến, quán triệt một cách triệt để các văn bản chỉ đạo, điều hành của BIDV trung ương, giao chỉ tiêu huy động vốn đến từng phòng chức năng của chi nhánh, thường xuyên phát động các đợt thi đua huy động vốn trong chi nhánh. Nâng cao trình độ của cán bộ điện toán để hạn chế các lỗi chương trình ảnh hưởng đế thời gian giao dịch, đồng thời cần nghiên cứu viết thêm một số chương trình hỗ trợ như chương trình phân đoạn khách hàng để thuận tiện trong chăm sóc khách hàng, chương trình truyền tải công văn chi nhánh đến các phòng ban để kịp thời trong quản trị điều hành, tránh thất lạc và chậm trễ trong di chuyển văn bản. Cần mở rộng mạng lưới giao dịch đến một số xã, huyện tiềm năng như xã Hòa Thuận, huyện CưKuin, huyện CưMgar để có thể huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của người dân, luôn giữ chữ tín với khách hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3.3 Kiến nghị Ngân hàng nhà nước tỉnh DakLak cần: tăng cường sự chỉ đạo tích cực, hỗ trợ mạnh mẽ cho các ngân hàng thương mại; thực hiện tốt chính sách quản lý nhà nước, tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, chấn chỉnh, xử lý kịp thời những sai phạm làm thất thoát nguồn vốn của nhà nước, của nhân dân, để nâng cao hiệu quả cho vay và sử dụng vốn huy động; kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng chính sách lãi suất hợp lý, triển khai đồng bộ các biện pháp về điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ vì nếu tỷ giá ổn định, mở rộng mức bảo hiểm tiền gửi giúp khách hàng an tâm gửi tiền và ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, rà soát sửa đổi, bổ x sung, ban hành một số quy định mới phù hợp với diễn biến của hoạt động ngân hàng tại Việt Nam và thông lệ, chuẩn mực quốc, tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của thanh toán không dùng tiền mặt trên các phương
Luận văn liên quan