Tổng quan về làng nghề Hà Tây

Tỉnh Hà Tây thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, phía đông giáp Hà Nội, Hưng Yên, phía nam giáp Hà Nam. Địa hình của tỉnh tương đối đa dạng bao gồm đồi, núi và đồng bằng. Hà Tây có diện tích là 2192 km, với dân số là 2452500 (theo năm 2002). Hà Tây là vùng đất trú nhự của một số dân tộc Việt, Mường, Tày Dao. Nơi đây có nhiều cảnh đẹp lý tưởng cho phát triển du lịch Chính vì vậy mà Hà Tây đã dần định hình một thương hiệu du lịch làng nghề nổi tiếng ở trong nước và ngoài nước. Năm nay, Hội du lịch làng nghề truyền thống lần thứ ba của tỉnh sẽ diễn ra từ ngày 02 đến 04/12, tại oa thị xã Hà Ðông, với nhiều hoạt động thiết thực nhằm tôn vinh, bảo tồn, phát triển các nghề thủ công và quảng bá cho làng nghề Hà Tây. Hiện nay, Hà Tây có 1.160 làng có nghề thủ công, trong đó 201 làng đã được tỉnh công nhận danh hiệu làng nghề với nhiều nghề truyền thống có giá trị như: sơn mài, khảm trai, điêu khắc, thêu ren, tơ lụa, điêu khắc đá, gỗ, hàng song, mây, giang tre, nón lá, rèn, đúc, v.v. Đến với Hà Tây ngoài việc tìm hiểu quy trình kỹ thuật làm ra các sản phẩm, khách được thâm nhập vào cuộc sống cộng đồng ở nông thôn, lựa chọn, mua các mặt hàng thủ công giá cả vừa phải, thưởng ngoạn cảnh quan với vẻ đẹp đặc trưng của làng quê Bắc Bộ và nhiều sinh hoạt dân gian phong phú, sôi động.

doc29 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3078 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về làng nghề Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Tỉnh Hà Tây thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, Phú Thọ, phía đông giáp Hà Nội, Hưng Yên, phía nam giáp Hà Nam. Địa hình của tỉnh tương đối đa dạng bao gồm đồi, núi và đồng bằng. Hà Tây có diện tích là 2192 km, với dân số là 2452500 (theo năm 2002). Hà Tây là vùng đất trú nhự của một số dân tộc Việt, Mường, Tày Dao. Nơi đây có nhiều cảnh đẹp lý tưởng cho phát triển du lịch Chính vì vậy mà Hà Tây đã dần định hình một thương hiệu du lịch làng nghề nổi tiếng ở trong nước và ngoài nước. Năm nay, Hội du lịch làng nghề truyền thống lần thứ ba của tỉnh sẽ diễn ra từ ngày 02 đến 04/12, tại oa thị xã Hà Ðông, với nhiều hoạt động thiết thực nhằm tôn vinh, bảo tồn, phát triển các nghề thủ công và quảng bá cho làng nghề Hà Tây. Hiện nay, Hà Tây có 1.160 làng có nghề thủ công, trong đó 201 làng đã được tỉnh công nhận danh hiệu làng nghề với nhiều nghề truyền thống có giá trị như: sơn mài, khảm trai, điêu khắc, thêu ren, tơ lụa, điêu khắc đá, gỗ, hàng song, mây, giang tre, nón lá, rèn, đúc, v.v. Đến với Hà Tây ngoài việc tìm hiểu quy trình kỹ thuật làm ra các sản phẩm, khách được thâm nhập vào cuộc sống cộng đồng ở nông thôn, lựa chọn, mua các mặt hàng thủ công giá cả vừa phải, thưởng ngoạn cảnh quan với vẻ đẹp đặc trưng của làng quê Bắc Bộ và nhiều sinh hoạt dân gian phong phú, sôi động. I. NghÒ thªu tay 1.1:lØch sö nghÒ thªu Ở Việt Nam, nghề thêu là một ngành nghề thủ công truyền thống đã có tự lâu đời. Lịch sử của ngành nghề truyền thống này vốn gắn liền với lịch sử tâm linh của người phụ nữ Việt Nam trong quá khứ. Ngay từ thế kỷ thứ I, bên cạnh lá cờ thêu “Đền nợ nước trả thù nhà” của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, phụ nữ Việt Nam còn biết dùng công việc thêu thùa để trang hoàng nhà cửa, hơn nữa là để bày tỏ tâm sự, tình cảm và để làm đẹp cho chính mình.  Tuy nhiên, cho đến nay không ai biết được, nghề thêu Việt Nam hình thành từ bao giờ? Ai là người đầu tiên có ý tưởng biến công việc may vá, thêu thùa thành một ngành nghề nghệ thuật? Tương truyền rằng, đầu thế kỷ XVII, nghề thêu Việt Nam được đánh dấu một bước ngoặt phát triển mới. Thời đó, ngài Lê Công Hành, (sinh ngày 18/01/1606 – mất ngày 12/06/1661) tại làng Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây đã đúc kết kinh nghiệm và kỹ thuật thêu dân gian Việt Nam để phổ biến rộng rãi một nghệ thuật thủ công mang đậm nét nghệ thuật. Cho đến thời phong kiến, nghề thêu là một trong những nghề phục vụ cho Vua chúa và giới Quý tộc. Sản phẩm thêu được hoàn thành bởi những chất liệu chỉ vải do công sức sáng tạo của những người nghệ nhân Việt Nam. Những sợi chỉ lúc đó được nhuộm bằng công thức thủ công với chất liệu hoàn toàn thiên nhiên như củ nâu, cây chàm, vỏ bàng, nước điệp, lá vông, đá mài, hoa hòe ... khiến cho người nước ngoài phải cảm phục để nhận định rằng: "Nhìn những màu nước nhuộm của các cô thợ thấy rất dơ dáy không ngờ đến khi nhuộm xong đều đủ hết một bảng màu vô cùng lạ lùng tưởng như phù phép mới có được".  Trong thời kỳ đó nghề thêu thường là do người phụ nữ Việt Nam đảm trách, theo quan niệm của nho giáo, người con gái phải hoàn thiện được tứ đức: "Công, Dung, Ngôn, Hạnh" như người xưa từng nói : “Trai thì đọc sách ngâm thơ Gái thì kim chỉ thêu thùa vá may.” Hocquard soạn giả sách nói về nghề thêu cuối thế kỷ XIX nhận định: "Người thợ thêu Việt Nam tỏ ra rất khéo léo trong việc phân bổ màu sắc trên lụa, để có những bức tranh thêu hòa hợp không chát chúa." Trải qua hàng thế kỷ thăng trầm, nghề thêu có khi lên xuống nhưng nó vẫn giữ được bản sắc văn hoá lâu đời của dân tộc.  1.2: TÝnh thiªng liªng cña nghÒ thªu. Nghề thủ công nào cũng gắn liền với những kiến thức huyền bí được truyền qua các thế hệ và bắt nguồn từ những khởi phát ban đầu. Công việc của người thợ thủ công có tính chất thiêng liêng vì nó mô phỏng việc làm của thượng đế, và bổ sung cho sáng tạo của Người. Thật vậy, theo huyền thoại của dân tộc Việt Nam chúng ta dạy rằng sáng tạo đấng tối cao chưa phải hoàn tất, và khi tạo ra trái đất, Người còn để lại những việc làm chưa xong, để cho con người làm nốt hoặc thay đổi nhằm đưa thiên nhiên tới chỗ hoàn thiện toàn mỹ. Hoạt động của người thợ thủ công khi làm việc được coi như "lặp lại" bí quyết của sáng tạo. Hoạt động này vận dụng tập trung một sức mạnh huyền bí, mà muốn tiếp cận sức mạnh đó bắt buộc phải tuân theo những nghi thức đặc biệt. Vì vậy, người thợ thủ công truyền thống vừa làm vừa ngân nga những bài ca nghi lễ, hay những câu kinh có nhịp điệu và điệu bộ cử chỉ của họ cũng được coi như một thứ ngôn ngữ. Thật vậy, cũng theo cách tượng trưng riêng, mỗi nghề phải sử dụng một điệu bộ miêu tả sự huyền bí của công việc sáng tạo ban đầu gắn liền với sức mạnh lời nói linh thiêng, như đã trình bày ở trên người ta thường nói: "Thợ thêu thêu lời nói, thợ rèn rèn lời nói, thợ dệt dệt lời nói còn thợ giầy vuốt tấm da là vuốt cho lời nói trơn tru". Ta hãy nhìn người thợ thêu thêu thành những tác phẩm của đời sống thiên nhiên, mà nghề nghiệp gắn liền với biểu tượng coi lời nói sáng tạo là một sức mạnh tỏa ra trong thời gian và không gian. Người thợ thêu làm nghề của đẳng cấp mình, nắm được bí mật của những kỹ thuật cơ bản nhất và áp dụng vào những chi tiết có ý nghĩa riêng. Trước khi bắt tay vào khung thêu, người thợ phải sờ và nhìn lại từng mũi kim trên tác phẩm và nói lên những lời, hay đọc bài kinh liên quan đến sức sống mà tượng trưng cho tác phẩm. Đôi tay nâng lên hạ xuống đưa những mũi kim là lặp lại nguyên thủy của lời nói sáng tạo, gắn liền với tính nhị nguyên của tất cả mọi vật và quy luật tuần hoàn. Người ta tin rằng đôi tay nâng lên và hạ xuống phát ra lời nói như sau: "Nhịp nhàng, nhịp nhàng Tay trên tay dưới Có vị Hoàng Đế băng hà Hoàng tử lên ngôi Ông nội mất Cháu đích tôn ra đời Nhịp nhàng nhịp nhàng Tay trên tay dưới" Điệu bộ của những người thợ thêu tạo hồn cho những tác phẩm sáng tạo đang hoạt động, còn lời nói phát ra theo nhịp các điệu bộ đó chính là sáng tác của sự sống. Có thể nói nghề nghiệp hay chức năng truyền thống, luyện nên con người, giáo dục hiện đại và cách dạy truyền miệng cổ xưa khác nhau chính là ở chổ đó. Những điều người ta học được của nhà trường phương tây, mặc dù là hữu ích nhưng con người không sống với những điều đó, trong khi những hiểu biết thừa hưởng được ở truyền thống dạy truyền miệng lại ăn sâu bén rễ và hiện thân trong toàn bộ mỗi con người. Công cụ để hành nghề là biểu hiện thành vật chất của những lời nói linh thiêng, nên sự tiếp xúc của người thợ thêu học việc với nghề nghiệp buộc người đó phải "sống" lời nói đó trong bất kỳ một cử chỉ nào. Vì vậy truyền thống dạy truyền miệng, xét chung, không chỉ đơn thuần là truyền lại những câu chuyện hay tri thức mà nó tạo ra và rèn luyện nên một mẫu người đặc biệt có thể nói là có nền văn minh của người thợ thêu. Do đó, người thợ thủ công truyền thống học theo thượng đế bằng những điệu bộ của mình, "lặp lại" công cuộc sáng tạo nguyên thủy của sự sống và đưa sự sống vào toàn bộ con người của mình, người thợ tham gia vào việc tái thực hiện huyền bí của sự sáng tạo vĩnh cửu. NHỊP ĐIỆU ĐÔI BÀN TAY Người thợ thêu thông qua cơ thể của mình liên lạc được với vũ trụ, tiếp xúc được với các năng lượng, các sức mạnh và dòng chảy trong vũ trụ. Ngồi thêu không phải là rời bỏ các giác quan của mình, mà ngược lại đang sử dụng các giác quan ấy một cách tinh tế, tiếp xúc được với các yếu tố trong trời đất, với vật chất. Người thợ đang thêu là một con người xác thịt bình thường nhưng mang tính chất thụ động thường ngày cũng không ở trong một trạng thái căng thẳng của một người đang cố sức giành lấy kỷ lục thể thao, mà là cầu nối giữa bên trong và bên ngoài. Con người đang thêu như đang chịu lễ ban thánh thể, chẳng đọ sức với bản thân, mà cũng chẳng đua tài với ai, vì thế giới thợ thêu cần phải có sự hòa điệu, hòa âm mới thêu được. trong khi thêu, người thợ khám phá ra được không gian với một niềm hưng phấn mạnh mẽ chẳng cách xa mấy với sự hưng phấn của tâm hồn. Tinh túy của động tác thêu là "Quý hồ tinh bất quý hồ đa" là chất lượng chứ không phải là số lượng là ở chỗ thực tại mình là gì, chứ không phải là mình có được cái gì. Con đường để đạt tới sự điêu luyện là sự lặp đi lặp lại lâu dài và rất tốn công phu của mỗi động tác từ chỗ bình thường trở thành quý hiếm rồi rồi hóa ra một động tác thêu. Mong muốn được thành đạt trong nghệ thuật thêu luôn làm thôi thúc và tạo sự hóa thân của người thợ thêu khiến mọi động tác của giới thực vật và động vật đều được cô đọng, được tập trung vào con người mình. Người thợ thêu là cái cây, bàn tay là rễ chuyển động, là con cá, con chim, một con đại bàng trên trái đất, một con chuồn chuồn bay la đà, một chiếc lá chở đầy hoa trôi theo dòng sông...v.v... Sống hài hòa giữa đất trời, giữa vật chất và phi vật chất, giữa thấp với cao, tối với sáng, giữa cái nói ra được và cái không nói thành lời. Người thợ thêu bị rung cảm và xúc động lôi cuốn cũng giống như những tác phẩm họ làm ra đưa người xem đến độ say sưa. Điều người thợ thêu tạo ra là một sự choáng ngợp giống như một tia chớp. Người đó có một ngọn lửa thiêng mà bản thân cũng là một ngọn lửa thiêng. 1.3: Lµng D­¬ng LiÔu Đã từ lâu, nghề thêu ở xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức không còn tồn tại, sự phồn thịnh của làng nghề tưởng như chỉ còn trong ký ức của mỗi người dân. Nhờ sự tâm huyết và giữ gìn nghề truyền thống của nhân dân và chính quyền địa phương, nên nghề thêu được khôi phục, phát triển. Nhờ có nghề mà người dân Dương Liễu đã thoát nghèo và làm giàu từ nghề truyền thống. Cũng như các làng nghề khác trong cả nước, sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ,  vì thế nghề cũng từ đó mai một dần. Ước muốn khôi phục làng nghề vẫn nhen nhóm trong lòng những người dân, năm 2002, với quyết tâm của những người thợ yêu nghề,  họ đi khắp nơi để tìm  hiểu thị hiếu của khách hàng  và tìm kiếm thị trường tiêu thụ.  Ban đầu,  Hợp tác xã Dương Liễu chỉ có 20 lao động chuyên sản xuất các mặt hàng áo kimônô, xuất sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Sau một thời gian,  người dân chuyển hẳn sang làm các loại tranh thêu. Với sự giúp đỡ của Liên minh Hợp tác xã tỉnh Hà Tây và huyện Hoài Đức, Hợp tác xã Dương Liễu đã tổ chức nhiều lớp dạy nghề và nâng cao tay nghề cho lao động. Nghề truyền thống được khôi phục đã thổi bùng ngọn lửa yêu nghề của nhân dân trong xã. Nghề thêu không vất vả nhưng đòi hỏi sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ. Có thể tự hào rằng những bức tranh phong cảnh quê hương, đất nước, tranh tứ bình… của người thợ ngày càng đạt giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật cao. Với đôi bàn tay khéo léo, người thợ đã làm cho tạo cho những đường thêu những nét hài hòa, sự tinh tế cho mỗi bức thêu. Nhiều tay kim tài hoa thổi hồn cuộc sống vào mỗi bức tranh thêu 1.4: Lµng Th¾ng Lîi làng cổ của huyện Thường Tín, trước đây đời sống kinh tế của người dân xã Thắng Lợi chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, người dân trong xã đã phát huy lợi thế nghề thêu truyền thống của cha ông để lại, đưa sản phẩm thêu của xã vươn tới những thị trường xuất khẩu tiềm năn. Nhờ đógiá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của xã tăng lên. Theo các cụ cao niên kể lại thì nghề thêu ở đây đã có hàng trăm năm nay. Đa số, người dân trong xã đều thành thạo kỹ thuật thêu. Sự khéo léo của đôi tay người thợ đã tạo nên những tác phẩm đặc sắc như tranh thêu  phong cảnh, tranh chân dung, tranh tứ bình. Bắt đầu từ năm 1986, nghề thêu chuyển mình theo hướng tích cực. Các sản phẩm thêu không chỉ tiêu thụ ở  thị trường trong nước  mà đã vươn ra thị trường nước ngoài  như thị trường Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan.Có thể tự hào rằng,  những bức tranh phong cảnh quê hương, đất nước, tranh tứ bình…của người thợ nơi đây ngày càng đạt giá trị nghệ thuật cao và được thể hiện với những nét hài hoà, tinh tế, làm hài lòng khách hàng trong nước và quốc tế. 1.5:Lµng Xãm BÕn Làng cổ nằm ven dòng sông Nhuệ, trước đây đời sống kinh tế của nhân dân thôn Xóm Bến, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín chủ yếu hướng vào sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây, khi nền kinh tế thị trường phát triển, người dân trong thôn đã phát huy lợi thế nghề thêu truyền thống của cha ông để lại chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp, đưa sản phẩm thêu vươn tới thị trường xuất khẩu tiềm năng. Không có lịch sử lâu đời như thêu Quất Động, Thắng Lợi, Dũng Tiến... nghề thêu ở thôn Xóm Bến được du nhập vào khoảng gần 100 năm nay. Trước năm 1986, đa số người dân trong thôn đều thành thạo kỹ thuật thêu và có không ít những tay kim tài hoa với những tác phẩm đặc sắc, thổi hồn vào mỗi bức tranh thêu. Các sản phẩm thêu không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà đã tìm được thị trường xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu, đưa giá trị tiểu thủ công nghiệp của thôn chiếm trên 20%. Vốn năng động nắm bắt thị trường,  người dân thôn Xóm Bến đã tìm kiếm một thị trường xuất khẩu mới là thêu vải áo kimônô cho người Nhật. Nghề thêu không vất vả, nhưng đòi hỏi sự khéo léo của đôi tay người thợ. Có thể tự hào rằng,  những bức tranh phong cảnh quê hương, đất nước, tranh tứ bình... của người thợ nơi đây không chỉ thể hiện với những nét hài hoà, tinh tế mà còn đạt giá trị nghệ thuật. Những người thợ đang thả hồn vào từng  đường thêu. Mỗi bức tranh thêu là một chủ đề về quê hương, đất nước hay đó là  không khí ngày mùa. Khi xem những bức tranh thêu này, người xem có cảm nhận  như đang tận mắt chứng kiến sự việc đang diễn ra.  Do có sự kết hợp giữa thêu truyền thống với kỹ thuật thêu áo kimônô nên tay nghề  của người thợ Xóm Bến càng trở nên điêu luyện. Nhìn những sản phẩm Kimono Nhật Bản, Hàn Phục với đường nét thêu tinh xảo mới thấy hết sự khéo léo, sáng tạo của người thợ thêu Xóm Bến. Đây là yếu tố quan trọng giúp các sản phẩm thêu của Xóm Bến vươn tới thị trường xuất khẩu tiềm năng. Nhiều sản phẩm  thêu truyền thống được xuất khẩu sang thị trường Tây Âu, Mỹ, Canađa, Singapore, Hàn Quốc...vv. Trong đó, thị trường xuất khẩu sang Hàn Quốc chiếm tới 60%. Nghề thêu phát triển đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động địa phương, giúp người dân từng bước cải thiện cuộc sống với mức thu nhập bình quân đạt 600-800.000 đồng/ người/ tháng. Nghề thêu đã góp phần tăng thu nhập cho các hộ gia đình, bộ mặt nông thôn ở Xóm Bền có nhiều đổi thay. Hiện tại trong thôn không còn hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí mới chỉ còn 2 hộ, 100% hộ dân sử dụng các phương tiện nghe nhìn, đường làng ngõ xóm được bê tông hoá, sạch đẹp. Nhiều ngôi nhà cao tầng khang trang mọc lên đang vươn cao cùng nhịp sống sôi động của một làng nghề. II. Làng nghề khảm trai Chuyên Mỹ   Xã Chuyên Mỹ, Phú Xuyên cách Hà Nội khoảng 46km có một làng tên là Ngọ Hạ, còn gọi là Chuôn Ngọ, nơi có nghề khảm trai nổi tiếng từ lâu đời. Theo truyền thuyết nghề khảm ở Chuyên Mỹ do Trương Công Thành một vị tướng dưới thời Lý, truyền dạy cho dân. Nhớ tới công đức của ông, dân Chuyên Mỹ tôn ông là tổ nghề khảm. Từ những vỏ trai, vỏ ốc tưởng như vô dụng những người thợ khảm Chuyên Mỹ với bàn tay tài hoa, khéo léo có thể tạo ra bất kỳ họa tiết nào dù tinh vi phức tạp đến đâu. Trước đây, người thợ Chuyên Mỹ chủ yếu làm hoành phi, câu đối và trang trí một số đồ gỗ sang trọng như sập gụ tủ chè. Ngày nay theo nhu cầu của thị trường, các sản phẩm Chuyên Mỹ đa dạng với chất lượng cao thoả mãn nhu cầu của thị trường trong nước cũng như quốc tế. Du khách đến đây ngày một đông để chiêm ngưỡng những sản phẩm độc đáo. III. Làng khảm trai Chuôn Ngọ Làng nghề thủ công Chuôn Ngọ nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tây. Ðây là cái nôi của một môn nghệ thuật tinh hoa của Việt nam: nghề khảm trai. Sự tinh tế và lòng say mê nghề đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận của người dân nơi đây và được truyền từ đời này qua đời khác. Ông Trương Công Thành chính là ông tổ của nghề này. Dưới triều Lý, ông là một người có văn võ song toàn và từng tham gia vào độị quân của Lý Thường Kiệt đánh đuổi quân xâm lược và nhiều lần được phong thưởng. Sau khi dời quân đội, ông đã dành cả phần đời còn lại để nghiên cứu, tìm hiểu và học nghề khảm trai. Gia tài mà Trương Công Thành để lại và còn tồn tại đến ngày nay đó là nghề khảm trai ở làng Chuôn Ngọ. Sản phẩm của ba nghệ nhân của làng Chuôn Ngọ đã được trao huy chương vàng. Họ là những nghệ nhân có đôi bàn tay khéo léo, con mắt mỹ thuật tinh tế và bộ óc đầy sáng tạo. Họ là hiện thân của câu nói: "Những nghệ nhân khảm trai dường như nhập hồn mình vào trong mỗi tác phẩm". Trong đền thờ Thành Hoàng Làng bên cạnh bụi tre hàng trăm năm tuổi có một bức hoành phi trên đó có khắch dòng chữ được tạm dịch là: "Người dân làng Ngọ luôn biết ơn mảnh đất thiêng liêng này đã cho dân làng cuộc sống thịnh vượng nhờ có nghề truyền thống của tổ tiên và nguyện sẽ phát triển nó mãi mãi ". Nguyễn Thuyết Trình, một nghệ nhân đạt huy chương vàng nói: "Trước đây, hầu hết những sản phẩm của làng là khảm trai trên các khay trà trong triều đình và khảm trên những chiếc bàn tiệc của vua, chúa và hoàng hậu. "Chiếc khay khảm trai được đặt trên những chiếc sập khảm trai là những biểu tượng cho sự sang trọng và có địa vị" và chỉ những người giàu có và các nhà nho mới có được những vật đó. Khảm trai còn được sử dụng trong những ngôi nhà xây dựng theo kiến trúc cổ: họ đã khảm cừ lên những vòm mái với những viên ngói màu xanh của hoàng thành.". Chuôn là làng đầu tiên làm nghề khảm trai và được khách hàng tín nhiệm bởi chất lượng sản phẩm. Bên cạnh là làng Ngọ Hà nổi tiếng với nghề sơn mài. Hai cái tên của hai làng nghề này gắn với nhau tượng trưng cho một Chuyên Mỹ. Khi nhắc đến Chuôn Ngọ, bạn không thể không nhắc đến bảy làng nghề của xã. Nghề khảm trai đã đưa làng thoát khỏi cảnh nghèo nàn và có nhiều hộ gia đình được coi là "giàu có".  Khảm xà cừ hay cẩn xà cừ là một nghề thủ công lâu đời của Việt Nam. Nghề này từ xưa đã khá phát triển, vì có nguồn nguyên liệu dồi dào bởi Việt Nam là một quốc gia có địa thế nằm trải dài theo bờ biển. Làng nghề Chuôn Ngọ ở phía Bắc tỉnh Hà Tây là cái nôi của nghề khảm xà cừ Việt Nam. Trước đây, hầu hết các sản phẩm khảm trai được sử dụng trong triều đình và trong các nhà giàu, có địa vị IV. Làng Tò He - Xuân La Nằm cách Hà Nội chừng 30 km về phía Đông Bắc, làng Xuân La lặng lẽ lưu giữ một nghề truyền thống có một không hai của dân tộc – nghề nặn tò he. Đã có một thời gian dài nghề nặn tò he tưởng như đã bị mai một. Nhưng trong những tháng năm thăng trầm, khó khăn đó, người dân Xuân La vẫn âm thầm lặng lẽ “thổi hồn” vào những con giống tò he, để lưu giữ và phục hồi một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc. Nghề nặn Tò he xuất hiện và tồn tại lâu đến độ, cái tên Tò he cho đến nay không ai trong làng có thể giải thích hết được đầy đủ ý nghĩa của nó. Chỉ biết rằng chữ ấy, đơn giản là Tò he, đơn giản như chính những sản phẩm của nghề được làm ra bởi đôi bàn tay tài hoa của những người trong làng. Đó là những con giống, con vật gần gũi, gắn bó với người dân: 12 con Giáp: chó, mèo, lợn, gà,.. các loài hoa: hoa hồng, hoa cúc, hướng dương… cho đến những hình mẫu là sản phẩm của trí tưởng tượng dân gian: Long, Ly, Quy, Phượng… Những con giống đơn giản đó được tạo, tác qua một quá trình phức tạp, kết hợp nhiều công đoạn cùng với bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo của người thợ. Tò he được làm từ bột gạo nếp. Bột phải được nghiền từ thứ gạo nếp dẻo mà trắng, tròn mà thơm. Gạo được nhặt sạch sạn, thóc… sau đó đem nghiền mịn đến độ vê trên tay mà tay không có cảm giác. Thứ bột ấy sau đó được cho vào nồi luộc chín. Luộc bột cũng đòi hỏi kĩ thuật và kinh nghiệm. Phải “canh” thời gian, sức lửa cho bột vừa chín tới. Nếu bột chín quá thì thành ra ướt, nhão. Sống quá thì khô, nặn sẽ nứt. Bột sau khi luộc chín sẽ được trộn đều với phẩm màu. Mầu được chế từ thực vật nhằm tránh độc hại cho trẻ những khi chúng đem ăn. Qua những con giống rất đỗi bình dị được làm ra từ nguyên liệu cũng bình dị, nhưng nó lưu giữ trong bản thân những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần truyền thống đặc sắc.  Nặn tò he là cả một nghệ thuật. Nghệ thuật tò he có tác dụng giáo dục trẻ em sâu sắc, hướng thiện con người, hướng con người tìm về với những giá trị văn hoá, nhân văn cao cả. Nghệ nhân của làng quả không