Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng hợp, không chỉ được nhìn nhận từ những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả từ góc độ văn hóa. Cuộc đấu tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với các cuộc đấu tranh khác, trước hết là cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục tiêu: Vì con người, tất cả cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ biện chứng, không thể nói cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của xã hội: Nền tảng kinh tế. Văn hóa là một nền tảng của xã hội: Nền tảng văn hóa. Nói một cách khác, kinh tế và văn hóa là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và phát triển của một dân tộc, một quốc gia. Sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường là quy luật của kinh tế, tác động trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của xã hội. Văn hóa không đứng ngoài tác động đó. Nhưng văn hóa có đặc điểm và quy luật riêng của nó. Không thể loại trừ hoạt động kinh tế trong văn hóa, cũng không thể loại trừ hoạt động văn hóa trong kinh tế. Sự tác động qua lại và đồng thời là đúng quy luật khách quan. Dù xét từ giác độ nào thì mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh nên bản chất của kinh doanh là để kiếm lời. Trong kinh tế thị trường, kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Còn việc kinh doanh như thế nào, kinh doanh đem lại lợi ích và giá trị cho ai thì đó chính là vấn đề văn hóa kinh doanh. Và trong các yếu tố cấu thành nên văn hóa kinh doanh, ta không thể không nhắc đến triết lý kinh doanh. Một hệ thống các giá trị cốt lõi có vai trò như kim chỉ nam định hướng các hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Nằm trong một hệ thống tạo nên văn hóa kinh doanh, triết lý kinh doanh giữ vị trí đầu tiên và cũng là vị trí quan trọng quyết định giá trị của tổ chức. Nó quy chiếu trong mình những giá trị mang tính chiến lược trong hoạt động của doanh nghiệp mà qua quá trình thực hiện theo hệ triết lý này, cả khách hàng – đối tác và những cá nhân trong tổ chức sẽ nhận thức ra những “đặc sắc”, “độc đáo” và điều tạo nên sự khác biệt cho doanh nghiệp. Ngoài phần lời mở đầu đi kèm, đề tài gồm 3 chương Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Triết lý kinh doanh Chương 2: Triết lý kinh doanh Việt Nam thời kỳ hội nhập Chương 3: Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập

pdf38 trang | Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 10353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MÔN HỌC VĂN HÓA VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN LÝ Đề tài: Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập A – PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tên đề tài Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập 2. Lý do chọn đề tài Quản lý là một lĩnh vực của hoạt động tổng hợp, không chỉ được nhìn nhận từ những góc độ của khoa học, mà cần phải được nhìn nhận cả từ góc độ văn hóa. Cuộc đấu tranh văn hóa bao giờ cũng gắn liền với các cuộc đấu tranh khác, trước hết là cuộc đấu tranh kinh tế và chính trị, nhưng tất cả đều thống nhất vào một mục tiêu: Vì con người, tất cả cho con người. Quan hệ kinh tế và văn hóa là quan hệ biện chứng, không thể nói cái nào quyết định cái nào. Kinh tế là một nền tảng của xã hội: Nền tảng kinh tế. Văn hóa là một nền tảng của xã hội: Nền tảng văn hóa. Nói một cách khác, kinh tế và văn hóa là hai nội dung cốt lõi của sự sinh tồn và phát triển của một dân tộc, một quốc gia. Sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường là quy luật của kinh tế, tác động trực tiếp và gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của xã hội. Văn hóa không đứng ngoài tác động đó. Nhưng văn hóa có đặc điểm và quy luật riêng của nó. Không thể loại trừ hoạt động kinh tế trong văn hóa, cũng không thể loại trừ hoạt động văn hóa trong kinh tế. Sự tác động qua lại và đồng thời là đúng quy luật khách quan. 1 Dù xét từ giác độ nào thì mục đích chính của kinh doanh là đem lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh nên bản chất của kinh doanh là để kiếm lời. Trong kinh tế thị trường, kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Còn việc kinh doanh như thế nào, kinh doanh đem lại lợi ích và giá trị cho ai thì đó chính là vấn đề văn hóa kinh doanh. Và trong các yếu tố cấu thành nên văn hóa kinh doanh, ta không thể không nhắc đến triết lý kinh doanh. Một hệ thống các giá trị cốt lõi có vai trò như kim chỉ nam định hướng các hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Nằm trong một hệ thống tạo nên văn hóa kinh doanh, triết lý kinh doanh giữ vị trí đầu tiên và cũng là vị trí quan trọng quyết định giá trị của tổ chức. Nó quy chiếu trong mình những giá trị mang tính chiến lược trong hoạt động của doanh nghiệp mà qua quá trình thực hiện theo hệ triết lý này, cả khách hàng – đối tác và những cá nhân trong tổ chức sẽ nhận thức ra những “đặc sắc”, “độc đáo” và điều tạo nên sự khác biệt cho doanh nghiệp. 3. Mục tiêu nghiên cứu Như trên nhóm đã trình bày, càng ngày con người càng nhận thấy rằng văn hóa tham gia vào mọi quá trình hoạt động của con người và sự tham gia đó ngày càng được thể hiện rõ nét và tạo thành các lĩnh vực văn hóa đặc thù như văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa gia đình và…văn hóa kinh doanh. Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với hàng hóa và thị trường. Tuy nhiên, khi xã hội chúng ta phát triển đến một mức nào đó, những điều còn lại sau đồng tiền, sau lợi nhuận, sau những cạnh tranh, bon chen…trên trường kinh tế sẽ là những giá trị nhân bản thuộc về con người. Tất cả những giá trị ấy quy tụ trong văn hóa kinh doanh. Tìm hiểu về vấn đề này, nhóm chúng tôi đã lựa chọn Triết lý kinh doanh như một nhân tố quan trọng tạo nên văn hóa kinh doanh xưa và 2 nay. Nhìn nhận một cách khách quan chúng ta có thể thấy triết lý kinh doanh chính là nền tảng chi phối đến các hoạt động của doanh nghiệp... Ở Việt Nam, kể từ sau những quyết định mở cửa nền kinh tế tiến hành từ Đại hội VI, hoạt động kinh doanh trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết, tuy nhiên thực tế cho thấy – ta gặp phải không ít khó khăn trong quá trình xác định mục tiêu, sứ mệnh của mình. Vì thế cần học tập kinh nghiệm xây dựng triết lý kinh doanh và kinh nghiệm khai thác vai trò triết lý kinh doanh trong quản lý doanh nghiệp để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa các doanh nghiệp nước ta với các doanh nghiệp nước ngoài. Bài tiểu luận này của Nhóm xin phép được trình bày về quá trình phát triển của Triết lý kinh doanh, đồng thời chú trọng phân tích vai trò của triết lý kinh doanh trong giai đoạn hiện tại nhằm làm nổi bật nên giá trị của yếu tố này trong mỗi tổ chức vào mỗi thời kỳ. 4. Câu hỏi nghiên cứu Triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập như thế nào ? 5. Giả thuyết nghiên cứu Mỗi một khu vực kinh tế khác nhau thì có triết lý kinh doanh khác nhau. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần lời mở đầu đi kèm, đề tài gồm 3 chương Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về Triết lý kinh doanh Chương 2: Triết lý kinh doanh Việt Nam thời kỳ hội nhập Chương 3: Giải pháp phát huy triết lý kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập 3 B- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT LÝ KINH DOANH 1.1.Khái niệm chung về Triết lý: Triết lý là phương châm, nguyên tắc mà cá nhân hay tổ chức luôn cố gắng tuân thủ theo nó để đạt được mục tiêu hay nguyện vọng mà họ đang theo đuổi. Trong cuộc sống có bao nhiêu lĩnh vực thì con người có thể đưa ra bằng đó triết lý để thực hiện theo nó. Do vậy, ta thường bắt gặp các khái niệm rất phổ biến liên quan đến triết lý như “triết lý sống”, “triết lý kinh doanh”,… Khái niệm triết lý có quan hệ chặt chẽ với khái niệm “triết học”. Theo từ điển Hán – Việt: “Triết” nghĩa là trí ( sự nhận thức, hiểu biết sâu rộng về thế giới : trời, đất, người…và đạo lý). Ở phương Tây “triết học” ( philosophy) xuất phát từ tiếng Hy Lạp thời cổ đại, chuyển sang tiếng Latinh là philosophia = philo (yêu) +sophia (sự thông thái)  “Triết học” có nghĩa là môn học về sự thông thái. Bàn về khái niệm triết lý, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng, tuy ở phương Tây không có sự phân biệt giữa “triết lý” và “triết học”, nhưng trong tiếng Việt quan niệm đó lại được dùng để biểu đạt và phản ánh những đối tượng khác nhau. Các tác giả sách “ Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt lõi” nêu định nghĩa triết lý là: “ Kết quả của sự suy nghẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội. Chúng có vai trò định hướng trực tiếp ngược trở lại đối với cuộc sống và những hoạt động thực tiễn rất đa dạng ấy”. 4 “Triết lý là những tư tưởng có tính triết học ( tức là sự phản ánh đã đạt đến trình độ sâu sắc và khái quát cao ) được con người rút ra từ cuộc sống của mình và chỉ dẫn, định hướng cho hành động của con người – Theo “Bài giảng văn hóa kinh doanh” – Trường Đại học kinh tế quốc dân. Theo PGS. PTS. Đỗ Thị Doan và PTS. Đỗ Minh Cường trong cuốn “Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp” cho rằng triết lý là những tư tưởng có tính triết học được con người rút ra từ cuộc sống của họ; là thứ triết học về đạo lý, triết học của hành động. Như vậy so với “triết học”, “triết lý” được hiểu ở trình độ thấp hơn, có phạm vi hẹp hơn, chỉ là cơ sở lý luận của một hệ thống quan điểm, một học thuyết và theo nghĩa ở mức độ cao, nó chính là những quan niệm, tư tưởng sâu xa nhất của con người về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng dù hiểu theo cách nào cũng có thể thấy rằng, “triết lý” không phải là duy tâm siêu hình mà nó là kết quả của những kinh nghiệm và lẽ sống của nhiều thế hệ trước đúc kết lại. 1.2.Triết lý kinh doanh: 1.2.1. Khái niệm kinh doanh “Kinh doanh” hiểu theo nghĩa rộng và nói chung là một số hoặc toàn bộ hoạt động của quá trình sản xuất, thương mại, dịch vụ…có mục đích là đạt được lợi nhụân cho chủ thể. Như vậy kinh doanh là một hình thái đặc thù của kinh tế. Nó không chỉ là hoạt động buôn bán, lưu thông, mà còn bao gồm các hoạt động sản xuất và các loại dịch vụ khác ( giải trí, thông tin, du lịch…). Chủ thể kinh doanh cũng là một khái niệm hệ thống gồm nhiều cấp độ (một cá nhân, một tập thể, doanh nghiệp…) cho 5 nên triết lý kinh doanh chính là các triết lý hình thành trong quá trình kinh doanh của các chủ thể khác nhau. 1.2.2. Triết lý kinh doanh Kinh doanh, như ta đã biết là tất cả những hành vi và hoạt động có mục đích là đem lại lợi nhuận cho chủ thể. Như vậy, Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, khái quát hóa của các chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn cho hoạt động kinh doanh - Theo PGS. PTS. Đỗ Thị Doan và PTS. Đỗ Minh Cường trong cuốn “Triết lý kinh doanh với quản lý doanh nghiệp” định nghĩa. Nó là sản phẩm phản ánh có mục đích phục vụ cho chủ thể kinh doanh nên sự khác nhau trong ngành, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp sẽ quy định tính đặc thù của triết lý kinh doanh. Bởi vì sẽ là sơ lược và giản đơn nếu nghiên cứu các triết lý kinh doanh chúng ta lại bỏ qua những nét đặc thù của khách thể và môi trường kinh doanh của chủ thể. Ở đây, nhóm chúng tôi lưu ý tới thực tế - trong các nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh thành công đều trở thành những nhà quản lý, chủ thể kinh doanh thành đạt; cho nên triết lý kinh doanh chỉ có giá trị thực sự khi nó áp dụng được cho doanh nghiệp và tạo nên bản sắc cũng như phong cách của doanh nghiệp. 1.2.3. Đặc điểm của triết lý kinh doanh Triết lý kinh doanh chỉ nảy sinh trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa nhiều thành phần kinh tế và các chủ thê kinh doanh khác nhau. Triết lý kinh doanh được hình thành dần từ kinh nghiệm kinh doanh, nghĩa là những người thành lập doanh nghiệp sau một thời gian dài làm kinh doanh và quản lý đã từ kinh nghiệm rút ra triết lý kinh doanh; hoặc là ngay thời kỳ đầu mới thành lập, những người lánh đạo doanh nghiệp đã chủ động xây dựng triết lý làm định hướng phát 6 triển tổ chức của mình và được tiến hành thông qua sự thảo luận và đóng góp của hầu hết số thành viên. Triết lý kinh doanh có thể biểu diễn bởi nhiều loại hình văn bản hoặc nghệ thuật khác nhau. Triết lý kinh doanh thường gồm ba bộ phận cơ bản có quan hệ mật thiết với nhau: mục tiêu của doanh nghiệp; phương thức hành động; quan hệ của doanh nghiệp với môi trường kinh tế xã hội, nghĩa vụ chung của doanh nghiệp và nguyên tắc của thành viên trong doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh chứa đựng những chuẩn mực, giá trị, hệ tư tưởng, lý tưởng phấn đấu và nguyên tắc hành động của các thành viên, định huớng mọi người theo một mục tiêu đã đặt ra. Triết lý kinh doanh tuy rất bền vững nhưng vẫn có thể thay đổi cho phù hợp với môi trường kinh doanh và đời sống. 1.2.4. Mối quan hệ giữa triết lý kinh doanh, triết lý doanh nghiệp và triết lý quản lý Kinh doanh là một lĩnh vực hoạt động và nghề nghiệp đầy khó khăn, phức tạp. Triết lý kinh doanh rất phong phú và nhiều loại khác nhau. Có thể phân loại triết lý kinh doanh dựa theo hai tiêu chí cơ bản: Chức năng – nghiệp vụ và quy mô của chủ thể kinh doanh. Dựa theo chức năng – nghiệp vụ tồn tại các loại hình triết lý như: Triết lý (kinh doanh) về sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; triết lý về marketing, quản lý chất lượng hàng hóa … 7 Dựa vào quy mô của các chủ thể kinh doanh – quy mô tổ chức người có thể chia làm ba loại cơ bản: Triết lý áp dụng cho các cá nhân kinh doanh; triết lý cho các tổ chức kinh doanh, chủ yếu là triết lý về quản lý của doanh nghiệp; triết lý vừa có thể áp dụng cho các cá nhân lại vừa có thể áp dụng cho các tổ chức kinh doanh. Triết lý kinh doanh của các cá nhân(loại 1) chính là các triết lý được rút ra từ những kinh nghiệm, bài học thành công và thất bại trong quá trình kinh doanh. Còn các triết lý loại 2, 3 thực chất là triết lý chung của tổ chức kinh doanh – triết lý quản lý doanh nghiệp. Trên thực tế trong các nền kinh tế thị trường thì các nhà kinh doanh; chủ thể kinh doanh thành đạt, phát triển là các tổ chức kinh doanh – các doanh nghiệp cho nên triết lý kinh doanh chỉ có giá trị phổ quát khi nó áp dụng được trong các doanh nghiệp. Mặt khác, quản lý một doanh nghiệp bao giờ cũng phức tạp, khó khăn hơn hoạt động của một cá thể tự kinh doanh. Với những lý do trên có thể nhận thấy “ phần chủ yếu và thực chất của triết lý kinh doanh là bộ phận triết lý chung của tổ chức kinh doanh – triết lý chung của doanh nghiệp còn gọi tắt là triết lý doanh nghiệp”. Nói cách khác, triết lý doanh nghiệp là triết lý kinh doanh của tất cả các thành viên của một doanh nghiệp cụ thể. Triết lý doanh nghiệp là triết lý kinh doanh chung của tất cả các thành viên của một doanh nghiệp cụ thể. Khi một chủ thể kinh doanh trở thành người lãnh đạo doanh nghiệp, họ sẽ cố gắng vận dụng các tư tưởng triết học về kinh doanh và tổ chức quản lý của họ, phát triển nó thành triết lý chung của doanh nghiệp đó. Nó là lý tưởng, là phương châm hành động, là hệ giá trị và mục tiêu chung của doanh nghiệp chỉ dẫn cho hoạt động nhằm làm cho doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự phát triển của doanh nghiệp được định hướng chủ yếu từ triết lý doanh nghiệp đúng đắn. 8 Triết lý doanh nghiệp là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp: Xác định sứ mệnh, các giá trị cốt lõi và phương thức hoạt động, quản lý của doanh nghiệp, nên triết lý kinh doanh trở thành yếu tố quan trọng nhất của văn hóa doanh nghiệp. Sứ mệnh và giá trị cốt lõi có ý nghĩa định hướng sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, hướng mọi thành viên trong doanh nghiệp tới một mục đích chung. Trong khi các yếu tố khác của văn hóa doanh nghiệp có thể thay đổi, thì sứ mệnh và giá trị cốt lõi doanh nghiệp thường không thay đổi. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp trở thành nền tảng của văn hóa doanh nghiệp. Các kế hoạch chiến lược mang tính lâu dài phải được bắt nguồn từ sứ mệnh chung của doanh nghiệp. Vì vậy, triết lý doanh nghiệp chính là công cụ để hướng dẫn cách thức kinh doanh phù hợp với văn hóa doanh nghiệp. Nó chính là cơ sở đào tạo, phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp: Mọi thành viên trong doanh nghiệp gắn kết với nhau bởi một mục tiêu chung mà họ cùng hướng tới. Triết lý doanh nghiệp chính là sợi dây kết nối các thành viên trong doanh nghiệp với nhau, đồng thời là tiêu chuẩn chung để đánh giá mỗi thành viên. Việc tuyển dụng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên các giá trị chung và sứ mệnh chung của doanh nghiệp. Triết lý quản lý là định hướng cơ bản có tính sống còn, gắn liền với sứ mệnh của tổ chức trong hoạt động của con người để đạt đến mục tiêu đã xác định. Triết lý quản lý phản ánh thái độ, mong đợi mà tổ chức biểu thị đối với quan hệ nhóm có liên quan, trở thành cơ sở rộng lớn cho việc giải quyết các vấn đề của tổ chức. Triết lý quản lý là phần cốt lõi trong hệ giá trị , nó dẫn đến bộ tiêu chuân chung điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình quản lý. Từ triết lý quản lý các công tác tổ chức, các chức năng của quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ, hướng theo triết lý đã xác định. Đây thường là triết lý do những người sáng lập ra 9 doanh nghiệp đưa ra để đạt được mục tiêu của mình. Triết lý kinh doanh là một dạng cụ thể của triết lý quản lý. Thông qua những hệ giá trị, tư tưởng cốt lõi, phương châm hoạt động của mình việc hình thành triết lý kinh doanh cũng không ngoài mục đích vận hành tổ chức một cách hiệu quả và đem đến những giá trị cho con người. Việc hình thành và phát triển triết lý kinh doanh là một trong những vấn đề quan trọng trong quá trình vận hành doanh nghiệp. Ví dụ: Đối với những quốc gia phát triển như Nhật Bản, triết lý kinh doanh có vai trò như sứ mệnh kinh doanh; là hình ảnh của doanh nghiệp trong ngành và trong xã hội; là mục tiêu định hướng cho một thời kỳ phát triển dài. Mặt khác, các doanh nghiệp Nhật Bản coi triết lý kinh doanh như một yếu tố cấu thành thương hiệu khi mà họ sớm ý thức được rằng, kinh doanh sẽ được xã hội hoá với mức độ ngày càng gia tăng. Dù là bất cứ loại triết lý nào đã được đề cập ở trên, người lãnh đạo muốn tạo nên nó rất cần phải có sự hiểu biết về các yếu tố hình thành, có tham vọng biến nó thành sự thật, xuất phát từ chính hoàn cảnh thực tế để tạo nên những giá trị cần thiết… 1.2.5. Vai trò của triết lý kinh doanh trong việc hình thành văn hóa và đạo đức quản lý của doanh nghiệp Triết lý kinh doanh là công cụ định hướng và cơ sở để quản lý chiến lược của doanh nghiệp Triết lý kinh doanh là một lực lượng hướng dẫn, tạo sức mạnh to lớn cho thành công của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh có vai trò: 10 Thiết lập một tiếng nói chung hoặc môi trường của doanh nghiệp. Đảm bảo nhất trí về mục đích trong doanh nghiệp. Định rõ mục đích của doanh nghiệp và chuyển dịch các mục đích này thành các mục tiêu cụ thể. Nội dung của triết lý kinh doanh là điều kiện hết sức cần thiết thiết lập các mục tiêu và soạn thảo các chiến lược một cách hiệu quả. Một kế hoạch mang tính chiến lược bắt đầu với việc xác định một triết lý kinh doanh một cách rõ ràng. Triết lý kinh doanh được xem là bước chuẩn bị đầu tiên trong quản lý của doanh nghiệp mà cụ thể là quản lý chiến lược. Triết lý kinh doanh là cơ sở hoặc tiêu chuẩn để phân phối nguồn lực của tổ chức. Sứ mệnh hay mục đích của doanh nghiệp là một môi trường bên trong có ảnh hưởng đến các bộ phận chuyên môn như sản xuất, kinh doanh, quản trị nhân sự. Một bộ phận chuyên môn phải dựa vào mục đích hay sứ mệnh của công ty để viết ra mục tiêu của bộ phận mình. Đối với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý kinh doanh là một văn bản pháp lý và cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược. Theo Peters & Waterman, nhờ có sự định hướng của triết lý kinh doanh mà những nhà quản lý có được “chìa khoá vàng” mở cánh cửa thành công. Triết lý kinh doanh là một công cụ để giáo dục, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra một phong cách làm việc đặc thù của doanh nghiệp Triết lý kinh doanh cung cấp các giá trị, chuẩn mực hành vi nhằm tạo nên một phong cách làm việc , sinh hoạt chung của doanh nghiệp, đậm đà văn hoá của tổ chức đó. 11 Với việc vạch ra lý tuởng và mục tiêu kinh doanh thể hiện ở phần sứ mệnh, triết lý kinh doanh giáo dục cho công nhân viên chức đầy đủ về lý tưởng, về công việc trong một môi trường văn hoá tốt, nhân viên sẽ tự giác phấn đấu vươn lên. Do triết ký kinh doanh đề ra một hệ giá trị đạo đức chuẩn làm căn cứ đánh giá mọi hành vi của các cá nhân trong tổ chức nên nó có vai trò trong việc điều chỉnh hành vi của nhân viên trong việc xác định bổn phận, nghĩa vụ của mỗi nhân viên đối với tương lai của sự phát triển của tổ chức. Như vậy, vai trò của triết lý kinh doanh với doanh nghiệp có thể so sánh với bất kì nguồn lực nào khác trong tổ chức.Nhận xét về tầm quan trọng của triết lý kinh doanh Uwayaki : “Bí mật của các doanh nghiệp trong cuốn “chưa hề thất bại” viết : “Nguồn tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng, ngoài người, tiền của hay vật tư hàng hoá, còn bao gồm những nguồn tài sản mắt thường không nhìn thấy được nhưng lại có tác dụng vô cùng to lớn. Bộ phận quan trọng nhất của nguồn tài sản vô hình đó là triết lý kinh doanh và phong thái kinh doanh là cốt lõi của phong thái doanh nghiệp”. CHƯƠNG 2: TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THỜI KỲ HỘI NHẬP 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội thời kỳ hội nhập Cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế nền kinh tế Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12 -1986) đã khẳng định phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Những năm tiếp sau đó, tư tưởng này được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách và văn bản pháp.luật. Cơ chế thị trường đang từng bước được hoàn thiện để tạo ra những cơ hội bình đẳng trong kinh 12 doanh cho tất cả mọi thành phần kinh tế, cho mọi người đều có thể có điều kiện làm giàu cho bản thân và xã hội. Nghị quyết của Đại hội lần VI là cơ sở lý luận cho sự đổi mới về thể chế và được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách, văn bản pháp luật trong những năm tiếp theo. Tháng 11 – 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 2