Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, là một tôn giáo lớn trên thế giới với hệ thống giáo lý đồ sộ đã 
ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Phật giáo đã chỉ ra sự tồn tại của con người là đau khổ (Khổ 
đế), chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ (Tập đế), đưa ra khả năng khắc phục sự đau khổ (Diệt đế) và 
đưa ra con đường thoát khỏi đau khổ (Đạo đế). Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II -SCN, trải qua bốn giai đoạn chính, đó là: Đầu công nguyên đến thời Bắc thuộc, hình thành và phát 
triển; Thời nhà Lý, Trần phát triển cực thịnh; Thời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX chính thức suy thoái; 
Đầu thế kỷ XX đến nay, diễn ra phong trào phục hưng. Tuy phải thăng trầm cùng lịch sử dân tộc 
như vậy nhưng vai trò của Phật giáo vẫn không hề thay đổi mà ngày càng có những ảnh hưởng 
mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của người dân nước ta. Biểu hiện trong đời sống chính trị và 
pháp luật; Trong văn học, ca dao dân ca; Trong quan niệm đạo lý, tư tưởng; Trong phong tục, tập 
quán, tín ngưỡng; Trong ý thức thẫm mỹ, nghệ thuật; Trong văn hóa kinh doanh; Nhất là trong 
xu thế mở cửa hội nhập ngày nay, bên cạnh sự phát triển của kinh tế-chính trị-xã hội là mặt trái với 
xu hướng suy thoái đạo đức nhân cách con người, chính những tư tưởng tích cực trong triết lý 
nhân sinh của Phật giáo sẽ góp phần điều chỉnh hành vi và nhân cách con người Việt Nam trong 
thời đại mới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3541 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 
188 
TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG 
CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM 
BUDDHIST PHILOSOPHY STUDENTS AND 
STAFF AFFECT ITS SPIRITUAL LIFE PERSON TO VIETNAM 
SVTH: Phan Thị Thu Hiền 
Lớp 08 SGC, Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại học Sư Phạm 
GVHD: ThS. GVC. Lê Đức Tâm 
Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh Tế 
TÓM TẮT 
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, là một tôn giáo lớn trên thế giới với hệ thống giáo lý đồ sộ đã 
ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Phật giáo đã chỉ ra sự tồn tại của con người là đau khổ (Khổ 
đế), chỉ rõ nguyên nhân của đau khổ (Tập đế), đưa ra khả năng khắc phục sự đau khổ (Diệt đế) và 
đưa ra con đường thoát khỏi đau khổ (Đạo đế). Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ II-
SCN, trải qua bốn giai đoạn chính, đó là: Đầu công nguyên đến thời Bắc thuộc, hình thành và phát 
triển; Thời nhà Lý, Trần phát triển cực thịnh; Thời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX chính thức suy thoái; 
Đầu thế kỷ XX đến nay, diễn ra phong trào phục hưng. Tuy phải thăng trầm cùng lịch sử dân tộc 
như vậy nhưng vai trò của Phật giáo vẫn không hề thay đổi mà ngày càng có những ảnh hưởng 
mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của người dân nước ta. Biểu hiện trong đời sống chính trị và 
pháp luật; Trong văn học, ca dao dân ca; Trong quan niệm đạo lý, tư tưởng; Trong phong tục, tập 
quán, tín ngưỡng; Trong ý thức thẫm mỹ, nghệ thuật; Trong văn hóa kinh doanh;… Nhất là trong 
xu thế mở cửa hội nhập ngày nay, bên cạnh sự phát triển của kinh tế-chính trị-xã hội là mặt trái với 
xu hướng suy thoái đạo đức nhân cách con người, chính những tư tưởng tích cực trong triết lý 
nhân sinh của Phật giáo sẽ góp phần điều chỉnh hành vi và nhân cách con người Việt Nam trong 
thời đại mới. 
ABSTRACT 
 Buddhism was born in India, is a major world religion with a doctrine of massive system 
has affected the whole world. Buddhism has indicated the existence of human suffering (Dukkha 
soles), specify the cause of suffering (File base), given the ability to overcome suffering (imperial 
Diet) and offer a way out from suffering (sole director). Buddhism was introduced into Vietnam from 
the second-century AD, through four main stages, namely: Early Northern BC to the time of 
formation and development; the Ly, Tran its zenith; Buy Hau Le at the end of the nineteenth 
century official recession; early twentieth century until now, held a revival movement. The ups and 
downs with history to the nation but so is the role of Buddhism that does not change is the 
increasingly strong influence in the spiritual life of the people of our country. Expression in political 
life and law in literature, folk singer knife; the moral conception, thought; the customs, practices and 
beliefs, in the sense of aesthetic, artistic; In the chemical business trend ... Especially in today's 
open integration, alongside the development of economic and socio-political trend is reverse the 
moral degradation of human dignity, the very thought positive philosophy of life in the Buddhist will 
contribute to adjust behavior and human dignity in modern Vietnam. 
1. MỞ ĐẦU 
 Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới và 
đã tồn tại rất lâu đời với hệ thống giáo lý rất đồ sộ, được du nhập vào nước ta khoảng thế 
kỷ II - SCN từ Trung Quốc, Ấn Độ. 
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 
189 
 Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua 4 giai đoạn: Từ đầu công nguyên đến hết thời 
kỳ Bắc thuộc, hình thành và phát triển rộng khắp; Thời nhà Lý - nhà Trần, phát triển cực 
thịnh; Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX, suy thoái; Từ đầu thế kỷ XX đến nay, phục 
hưng. 
 Trong thời kỳ đổi mới. Ngoài những thành tựu đã đạt được về mặt kinh tế - văn hóa 
- xã hội là mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nó đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực gây ra 
những ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt của đời sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nghiên 
cứu về triết lý nhân sinh Phật giáo cùng với quá trình du nhập, tồn tại, phát triển của nó tại 
Việt Nam sẽ làm nổi bật được những ảnh hưởng đến đời sống tinh thần nói người dân nước 
ta. 
 Với ý nghĩa thiết thực như trên nên tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu của mình 
là: “Triết lý nhân sinh Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần người Việt 
Nam”. 
 Phần nội dung của đề tài nghiên cứu gồm có hai chương, bốn tiết. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Chương 1. Triết lý nhân sinh Phật giáo 
 Phật giáo ra đời trong điều kiện kinh tế-chính trị-xã hội, tiền đề nhận thức tư tưởng 
Ấn Độ rất phức tạp. Khoảng thế kỷ VI-TCN đã xuất hiện nhà nước chiếm hữu nô lệ với 
chế độ phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, có 4 đẳng cấp chính là: Bà la môn (Brhmanes); 
Sát-đế-ly (Kastryas); Phệ-xá (Vaisyas); Thủ-đà-la (Suddra); Và 4 trào lưu tư tưởng là: Bà-
la-môn giáo chính thống; Trào lưu tín ngưỡng tập tục; Trào lưu triết học; Trào lưu phản 
Phệ-đà. 
 Người sáng lập ra đạo Phật là Đức Thích Ca Mâu Ni - “đấng giác ngộ”, họ tên là 
Gauthanma Shiddartha, sinh 8/4/566 (hay 663) TCN tại Kapilavatsu. Năm 19 tuổi, ngài kết 
hôn, có một con trai. 29 tuổi ngài xuất gia, 35 tuổi đắc đạo, Đức Phật tịch lúc 80 tuổi. 
 Quá trình phát triển của Phật giáo được chia làm 3 thời kỳ: Thế kỷ III-TCN đến thế 
kỷ IV-SCN, phát triển trong nước và các nước khác; Đầu thế kỷ XIII, suy thoái; Thế kỷ 
XIX, chấn hưng Phật giáo. 
 Quan niệm về triết lý nhân sinh, ở phương Đông đã kết luận bản tính tự nhiên của 
con người. Ở phương Tây thì kết luận con người được cấu tạo nên từ vật chất. Còn theo 
triết học Mác-Lê Nin, quan niệm về con người: Con người là một thực thể thống nhất giữa 
mặt sinh học với mặt xã hội; Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa 
những quan hệ xã hội; Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. 
 Đạo Phật quan niệm về triết lý nhân sinh thể hiện trong thuyết “Thập nhị nhân 
duyên”. Trong mười hai nhân duyên thì vô minh là căn bản. Từ nhân quá khứ sang quả 
hiện tại, quả hiện tại lại làm lại nhân cho quả tương lai. Cũng theo Phật giáo nguồn gốc vũ 
trụ và con người không do lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra mà cho rằng thế giới là vô 
cùng, vô tận. Ngoài thế giới mà chúng ta đang sống còn có nhiều thế giới khác. Điều này 
được thuyết minh trong kinh “Hoa Nghiêm”, kinh “Khởi thế nhân bổn” (Nikàya), kinh 
“Tiểu duyên” (Agama). 
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 
190 
 Phật giáo cho rằng sự tồn tại của con người là đau khổ, điều này được đề cập trong 
“Khổ đế” (Dukkha), nỗi khổ có thể phân loại làm “Tam khổ” hay “Bát khổ”. Về “Tam 
khổ” có Khổ khổ; Hoại khổ và Hành khổ. Về “Bát khổ” có “Sinh khổ”; “Lão khổ”; “Bệnh 
khổ; “Tử khổ”; “Ái biệt ly khổ”; “Cầu bất đắc khổ”; “Oán tăng hội khổ” và “Ngũ ấm xí 
thạnh khổ”. 
 Phật giáo cũng chỉ ra nguyên nhân của đau khổ, được thuyết minh trong “Tập đế” 
(Samudaya). Nguyên nhân đó là: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, 
giới cấm thủ và tà kiến. 
 Tuy nhiên, Phật giáo cũng đưa ra khả năng để khắc phục sự đau khổ đó là “Diệt đế” 
(Nirodha Dukkha). Khi con người diệt hết mọi phiền não, mê mờ tân gốc của nó thì sẽ đạt 
tới cõi Niết Bàn-Hạnh phúc tuyệt đối, thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. 
 Để thoát khỏi đau khổ và đạt tới cõi Niết Bàn cần có con đường đi, đó chính là 
“Đạo đế” (Magga). Đạo đế gồm: Tứ Niệm Xứ; Tứ Chánh Cần; Tứ Như Ý Túc; Ngũ Căn; 
Ngũ Lực; Thất Giác Chi; Bát Chánh Đạo. 
 Qua các giáo lý trên của Phật giáo ta thấy rõ những giá trị nhân văn mà Phật giáo 
đã đạt đến, đó là: Đứng trước phật tính mọi người đều bình đẳng; Coi con người chiếm địa 
vị độc tôn trên thế giới; Luôn tôn trọng sự sống, xem sự sống trên tất cả; Coi cái “ngã” là 
con người lớn để biểu thị chân lý tự do, tự tại của con người trong trời đất; Phật giáo có 
mục đích đưa con người trở về với chân-thiện-mỹ. 
2.2. Chương 2. Ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Phật giáo đến đời sống tinh thần 
người Việt Nam 
 Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam được chia làm 3 thời kỳ chính: Thời kỳ 
từ đầu công nguyên; Thời kỳ độc lập tự chủ (938) qua các triều dại Đinh, Lê, Lý, Trần đến 
triều nguyễn; Thời kỳ Pháp thuộc và sau 1954. 
 Ở thời kỳ đầu công nguyên: Phật giáo được xác định là du nhập vào nước ta thế kỷ 
II-SCN bằng đường biển và đường bộ từ Ấn Độ và Trung Quốc tại Giao Chỉ và Chăm Pa; 
Trước nhà Đường xuất hiện dòng thiền đầu tiên là Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (do ngài Tì-Ni-Đa-
Lưu-Chi người Ấn Độ sáng lập) ở nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế, với tư tưởng thiền 
là “Tức tâm tức phật”; Thời nhà Đường xuất hiện dòng thiền thứ hai là Vô Ngôn Thông 
(do ngài Vô Ngôn Thông người Trung Quốc sáng lập), Với tư tưởng “Tức tâm tức phật” và 
có bổ sung phần y báo đức Phật trong tâm. Điểm nổi bật của dòng thiền này là sự xuất hiện 
hình thức Cư sĩ-Thiền sư. 
 Ở thời kỳ độc lập tự chủ, trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến triều 
Nguyễn: Nhà Đinh và Tiền Lê đã đưa Phật giáo lên thành quốc giáo với chức tăng thống 
và thiền sư có vai trò cố vấn cho các nhà vua; Thời nhà Lý, Phật giáo phát triển cực thịnh, 
là quốc đạo và xuất hiện dòng thiền thứ ba là Thảo Đường (do ngài Thảo Đường người 
Trung Quốc sáng lập). Điểm nổi bật của dòng thiền này là vai trò của giới cư sĩ được 
khẳng định một cách chính thức. Giai đoạn này có sự hiện diện của cả 3 dòng thiền và Phật 
giáo có xu hướng nhập thế mạnh mẽ; Nhà Trần là triều đại của Phật giáo với vai trò nổi bật 
của Trần Nhân Tông-Người sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tư tưởng của dòng 
thiền này là phát triển đỉnh cao quan niêm “Tức tâm tức phật”; Thời Hậu Lê Phật giáo 
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 
191 
chính thức bước vào thời kỳ suy thoái với nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là do Hồ 
Quý Ly ra sức phát triển Nho giáo vào cuối thế kỷ XIV và nhà Minh xâm lược Đại Việt 
vào đầu thế kỷ XV; Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê thì nước ta chia cắt thành 
xứ đàng trong (vua Lê-chúa Trịnh) và đàng ngoài (chúa Nguyễn). Xứ đàng trong Phật giáo 
phát triển mạnh trên cơ sở một nền học lý mới nhờ vai trò của chúa Nguyễn Phúc Chu 
(được ví là Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử Phật giáo), nền học lý mới đó là dòng 
Tào Động, dòng Lâm Tế. Xứ đàng ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ dòng thiền Trúc Lâm Yên 
Tử. Khi Gia Long lên ngôi vào đầu thế kỷ XVIII, xã hội Việt Nam lâm vào cuộc khủng 
hoảng tư tưởng trầm trọng, đất nước rơi vào họa ngoại xâm, phật tử và nhân dân tự đứng 
dậy khởi nghĩa. 
 Ở thời kỳ Pháp thuộc và sau năm 1954: Thời Pháp thuộc, Thiên Chúa giáo được 
hậu thuẫn và Phật giáo bị khủng bố, đàn áp gắt gao vì thế Phật giáo giai đoạn này có xu 
hướng nhập thế và chấn hưng mạnh mẽ; Sau 1954, trên cả hai miền Nam Bắc, Phật giáo 
đều chưa có cơ hội để phát triển, nhưng sau 1975 nhờ chính sách tự do tôn giáo của Đảng 
và nhà nước, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh mẽ và dần lấy lại vị thế của mình. 
 Người Việt Nam có tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người sâu sắc, 
rộng lớn cùng với thái độ tôn trọng, đề cao những giá trị tốt đẹp của con người đã rất phù 
hợp với các quan niệm của Phật giáo. Vì thế mà từ lâu Phật giáo đã chiếm một vị trí hết 
sức quan trọng trong đời sống tinh thần người dân Việt. 
 Biểu hiện đầu tiên của sự ảnh hưởng đó chính là đời sống chính trị và pháp luật. 
Dưới thời Lý, do ảnh hưởng tinh thần từ bi, trí tuệ của Phật giáo, các vị vua nhà Lý đã xây 
dựng một nền pháp lý thuần từ và tiến bộ; Dưới triều Trần, áp dụng chính sách thân dân, 
xem trọng vai trò của người dân và các vị vua thường nhường ngôi cho con, chỉ ở địa vị 
thái thượng hoàng mà thôi, đây là biểu hiện việc thông tỏ phật pháp; Thời hiện đại, trong 
suốt thế kỷ XX, phật tử và nhân dân hăng hái tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp 
và đế quốc Mỹ. Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, sự có mặt của các thiền sư trong quốc 
hội và việc áp dụng chính sách pháp luật khoan hồng là những biểu hiện sinh động ảnh 
hưởng của Phật giáo trong đời sống chính trị và pháp luật. 
 Sự ảnh hưởng tiếp theo là trong lĩnh vực văn học, ca dao dân ca. Trong phạm vi 
văn học chữ Nôm, sự ảnh hưởng của Phật giáo rất mạnh mẽ, biểu hiện: Đầu thế kỷ XVIII, 
với tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, ảnh hưởng triết lý ba pháp ấn là 
vô thường, vô ngã và khổ; Đầu thế kỷ XIX, nổi bật vai trò của đại thi hào Nguyễn Du với 
tác phẩm bất hủ Đoạn trường tân thanh, ảnh hưởng thuyết khổ đế, nhân quả, nghiệp báo 
luân hồi; Cuối thế kỷ XIX với tác phẩm Hương sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh, 
ảnh hưởng thuyết nhân quả, cõi Niêt Bàn; Đầu thế kỷ XX, nổi bật là vai trò của thi sỹ Hàn 
Mặc Tử với những từ ngữ đượm màu sắc Phật giáo. Và với Vũ Hoàng Chương, mượn 
ngay giáo lý nhà phật để diễn tả nội dung tác phẩm với thuyết khổ đế, nhân quả, luân 
hồi,… Ảnh hưởng qua ca dao dân ca biểu hiện ở quan niệm hiếu hạnh, tri ơn và báo ơn; 
Quan niệm nhân quả; Ngôi chùa cùng với tiếng chuông chùa… Ngoài ra còn chịu ảnh 
hưởng bởi ngôn ngữ nhà phật, như; Từ bi, nhân duyên, tội nghiệp,… 
 Tiếp đến là ảnh hưởng đến quan niệm đạo lý, tư tưởng. Về quan niệm, đầu tiên là 
quan niệm từ bi, tiếp theo là tứ ân. Về tư tưởng, lớn nhất là tư tưởng duyên khởi, tứ diệu đế 
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 
192 
và bát chánh đạo. 
 Một ảnh hưởng nữa là phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Trước tiên biểu hiện qua 
nghi thức ma chay, cưới hỏi. Tiếp đến là phong tục ăn chay, thờ phật, phóng sinh, bố thí. 
Qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa. Và những tập tục khác như; Xin xăm bói quẻ, 
cúng sao giải hạn, đốt vàng mã, coi ngày giờ,… tuy nhiên, đây là những hủ tục cần được 
loại bỏ trong đời sống ngườ dân. 
 Ảnh hưởng đến ý thức thẩm mỹ, nghệ thuật. Biểu hiện qua nghệ thuật sân khấu như 
hát chèo, hát bội, cải lương, kịch nói,… Biểu hiện qua nghệ thuật tạo hình như kiến trúc 
(nhà chữ Công, chữ Tam, chữ Đinh, Nội công ngoai quốc,…), điêu khắc, hội họa,… 
 Ngoài ra, Phật giáo còn có ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh của người Việt Nam, 
biểu hiện qua việc lập bàn thờ tại nơi làm việc, các nhà kinh doanh thường đi lễ chùa để 
cầu xin đức phật gia hộ, cạnh tranh lành mạnh, làm từ thiện vì chịu ảnh hưởng thuyết nhân 
quả, luân hồi nghiệp báo,… 
 Trong cuộc sống hiện đại, đời sống vật chất được nâng cao nhưng xu hướng suy 
giảm các giá trị đạo đức ngày càng phát triển. Vì thế, việc chắt lọc mặt tích cực của triết lý 
nhân sinh Phật giáo để áp dụng vào điều chỉnh hành vi, lối sống của nhân dân nói chung và 
thế hệ trẻ nói riêng là rất cần thiết. Trước tiên đó là áp dụng mặt tích cực của thuyết nhân 
quả, luân hồi, từ bi hỷ xả,… để giáo dục nhân cách lối sống của người dân. Sau đó là vận 
dụng tinh thần vô ngã, vô thường vào việc điều chỉnh thái độ sống có phần tiêu cực của 
giới trẻ, giúp thế hệ trẻ có cái nhìn mới về con người, về cuộc sống, làm họ thấy rõ cần 
phải có tính vị tha, nhân ái và sống hết mình vì cộng đồng, chung tay xây dựng một xã hội 
tốt đẹp và tiến bộ. 
3. KẾT LUẬN 
 Phật giáo nói riêng và tôn giáo nói chung là một trong những bộ phận không thể 
thiếu được của kiến trúc thượng tầng nước ta. Du nhập từ thế kỷ II-SCN, được bản địa hóa 
cho phù hợp tâm lý người Việt Nam, vì thế mà Phật giáo đã có những ảnh hưởng rất lớn 
đến đời sống nói chung và đời sống tinh thần nói riêng của người dân. Trong xu thế mở 
của hội nhập, nền kinh tế-chính trị-xã hội đã có những bước phát triển vượt bậc, nhưng mặt 
trái của nó là hiện tượng suy thoái đạo đức, nhân cách con người. 
 Việc nghiên cứu triết lý nhân sinh Phật giáo nói chung, quá trình du nhập, tồn tại và 
phát triển của Phật giáo Việt Nam nói riêng sẽ giúp chúng ta hiểu được tại sao Phật giáo lại 
có những ảnh hưởng mạnh mẽ như thế đến đời sống tinh thần người dân Việt. Cũng từ đó, 
chúng ta sẽ chắt lọc được những giá trị ưu việt để áp dụng vào công tác giáo dục đạo đức, 
nhân cách con người, góp phần làm lành mạnh hóa xã hội, hạn chế mặt tiêu cực của nền 
kinh tế thị trường. 
 Trong suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo đã, đang và sẽ đồng hành cùng dân tộc. Góp 
phần hình thành, củng cố, điều chỉnh và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của 
dân tộc và nhân cách con người Việt Nam. 
Tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010 
193 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] PGS.TS Lê Hữu Ái (2009), “Phát huy vai trò của văn hóa truyền thống”, Tạp chí Lý 
luận chính trị, (12/2009), tr . 57 – 62. 
[2] Đoàn Trung Còn (2007), Lịch sử nhà phật, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, tr. 35 – 36. 
[3] TS Lê Văn Đính (2007), “Bàn thêm về ảnh hưởng của phật giáo trong đời sống xã hội 
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (10/2007), tr. 16 – 24. 
[4] Nguyễn Lang (2000), Phật giáo Việt Nam sử luận, tập 1, 2, 3, Nhà xuất bản Văn học, 
Hà Nội, tr. 25 – 26.