Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức hình thành rất sớm ở Trung Quốc.
Trên 2000 năm tồn tại của mình, Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Trung Quốc
cũng như các nước trong khu vực.
Nho giáo đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng hiếu
cho con người.Trong lịch sử phát triển của Nho giáo, cho dù quan niệm của các nhà nho
mỗi thời kỳ có khác nhau, song họ đều thống nhất với nhau một điểm: đề cao đức tính
"Hiếu" của con người, coi đó là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho
giáo.
Thế kỷ XXI, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, sự toàn cầu
hoá về kinh tế đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội, đạo đức
con người. Cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, đạo đức gia đình không đứng yên mà
vận động theo lịch sử phát triển xã hội. Đạo đức gia đình cũng đang có sự chuyển tiếp từ
truyền thống sang hiện đại. Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ hữu cơ, là hai mặt
của một vấn đề, không tách rời với nhau mà tác động lẫn nhau; hiện đại là sự tiếp nối của
truyền thống và truyền thống chỉ được duy trì khi nó phù hợp với sự tiến hoá của xã hội,
trở thành hiện đại.
110 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4365 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh
hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức hình thành rất sớm ở Trung Quốc.
Trên 2000 năm tồn tại của mình, Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn tới xã hội Trung Quốc
cũng như các nước trong khu vực.
Nho giáo đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có nội dung giáo dục tư tưởng hiếu
cho con người.Trong lịch sử phát triển của Nho giáo, cho dù quan niệm của các nhà nho
mỗi thời kỳ có khác nhau, song họ đều thống nhất với nhau một điểm: đề cao đức tính
"Hiếu" của con người, coi đó là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho
giáo.
Thế kỷ XXI, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, sự toàn cầu
hoá về kinh tế đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội, đạo đức
con người. Cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, đạo đức gia đình không đứng yên mà
vận động theo lịch sử phát triển xã hội. Đạo đức gia đình cũng đang có sự chuyển tiếp từ
truyền thống sang hiện đại. Truyền thống và hiện đại có mối quan hệ hữu cơ, là hai mặt
của một vấn đề, không tách rời với nhau mà tác động lẫn nhau; hiện đại là sự tiếp nối của
truyền thống và truyền thống chỉ được duy trì khi nó phù hợp với sự tiến hoá của xã hội,
trở thành hiện đại.
Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay, có thể thấy đó vốn là nơi duy trì bền vững
các giá trị đạo đức truyền thống nhưng đang đứng trước thách thức, sự tấn công của
những quan niệm tư tưởng mới, lối sống mới.Tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị
trường đang hàng ngày hàng giờ làm suy thoái đạo đức của một bộ phận người trong xã
hội. Thực tế cho thấy rằng, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện coi nhẹ những
giá trị truyền thống, chạy theo thị hiếu không lành mạnh. Đáng chú ý là:
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ… đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự mà
chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp [13,
tr.46].
Một điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong một số gia đình bị buông lỏng,
thái độ và hành vi đối xử của con cái đối với cha mẹ đang diễn ra một cách tuỳ tiện và
nhiều lúc thô bạo.
Để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia
đình Việt Nam thì việc nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo cùng những
ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của nó đối với đời sống đạo đức gia đình Việt Nam nói
chung và ở Cà Mau nói riêng, thông qua đó phát hiện, cải tạo và kế thừa những nhân tố
hợp lý, có giá trị để xây dựng nền đạo đức mới, xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm
no; khắc phục những biểu hiện tiêu cực xuống cấp về đạo đức là một việc làm cần thiết
và có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Qua những tài liệu tìm được, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đặt vấn
đề nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng "Hiếu" của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó trong đạo đức gia đình Việt Nam hiện nay, từ đó luận chứng cho việc tiếp
thu, kế thừa những yếu tố tích cực để xây dựng gia đình có văn hoá, đồng thời phê phán
và khắc phục những biểu hiện tiêu cực của nó trong gia đình. Để góp phần vào việc tìm
hiểu vấn đề đang cần được nghiên cứu sâu rộng hơn này, tác giả chọn đề tài "Tư tưởng
"Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà
Mau".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thập niên cuối thế kỷ XX, vấn đề gia đình trở thành vấn đề thời sự nóng
bỏng ở các nước khu vực châu á, khu vực vốn có truyền thống đề cao gia đình trong sự
hình thành nhân cách con người, sự tồn tại và phát triển xã hội. Chưa bao giờ vấn đề này
thu hút sự nghiên cứu của giới chuyên môn cũng như giới chính trị như thời gian này.
Xu thế toàn cầu hoá đang tạo ra nhiều cơ hội chưa từng thấy cho các gia đình phát
triển thì đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức, các loại hình gia đình đang đứng trước
nguy cơ bị đồng hoá, làm suy kiệt những hệ thống giá trị và chuẩn mực đạo đức gia đình.
Chính vì vậy, vấn đề củng cố, phát triển gia đình đã và đang trở thành mối quan tâm
chung của cộng đồng quốc tế. Những cuộc tranh luận về các "giá trị châu á" thì mối quan
hệ trong gia đình thường là trọng điểm. Về vấn đề này, ông Lý Quang Diệu (cựu thủ
tướng Singapore), người cổ vũ nhiệt thành cho nét đặc thù Châu á đã đưa ra nhận xét: sự
sụp đổ các cấu trúc gia đình là nguyên nhân của các vấn đề nan giải trong xã hội phương
Tây. Ngược lại, ở Châu á sức mạnh kinh tế lại bắt nguồn từ những con người ngoan
ngoãn, biết tôn trọng quyền lực của cha mẹ; cùng chung sức đầu tư thì giờ và tiền bạc cho
tương lai của con cái, sở dĩ như vậy vì cấu trúc gia đình ở nhiều nước châu á bền vững
hơn.
ở Việt Nam, vấn đề này đã được một số nhà nghiên cứu về Nho giáo đề cập đến.
Trần Trọng Kim với "Nho giáo", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1990. Vũ Khiêu với
“Nho giáo và gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 1995. Nguyễn Hiến Lê với "Khổng
tử", Nxb Văn hóa, năm 1991. Nguyễn Khắc Viện với "Bàn về đạo nho", Nxb Trẻ, năm
1993. Quang Đạm với "Nho giáo xưa và nay", Nxb Văn hóa thông tin, năm 1999. Vũ
Khiêu với "Nho giáo và sự phát triển của Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, năm 1997.
Nguyễn Tài Thư "Nho học và Nho học ở Việt Nam", Nxb Khoa học xã hội, năm 1997. Hà
Thúc Minh với "Đạo Nho và văn hoá phương Đông", Nxb Giáo dục, năm 2001.
Ngoài ra còn một số bài viết và luận văn, luận án nghiên cứu khá công phu, chẳng
hạn: “Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ” của Nguyễn Tài Thư; “ảnh hưởng của Nho
giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống” của Trần Thị Hồng Thúy; “Từ
đạo hiếu truyền thống, nghĩ về đạo hiếu ngày nay” của Nguyễn Thị Thọ, Tạp chí Triết
học số 6 năm 2007; “Một số suy nghĩ về đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam” của Nguyễn
Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 5 năm 1998; “Tìm hiểu tư tưởng đức trị trong Nho giáo”
của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Nghiên cứu lyự luận, số 10 năm 1999.
Trong những công trình, luận án và các bài viết trên, nhiều vấn đề quan trọng của
Nho giáo đã được đem ra bàn luận, như: Vì sao Nho giáo lại có sức sống dai dẳng hàng
nghìn năm ở nhiều nước phương Đông? Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội hay là
học thuyết về đạo đức, nhân luân; về Trung - Hiếu - Lễ và ảnh hưởng của nó đối với đời
sống đạo đức con người ?... Mặc dù vậy, việc nghiên cứu tư tưởng “Hiếu” trong Nho giáo
và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay thì chưa có
công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống.
Thách thức lớn nhất đối với gia đình Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI
là cùng với việc tiếp thu những giá trị nhân văn trong xu thế hội nhập, đồng thời phải
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình Việt Nam, đảm bảo cho sự phát
triển lâu dài của đất nước. Chính vì thế, định hướng cơ bản cho gia đình Việt Nam phát
triển bền vững trong xu thế hội nhập quốc tế đã được Đảng và Nhà nước ta xác định
trong Chỉ thị 49- CT/TW (ngày 21 tháng 02 năm 2005) của Ban Bí thư về "Xây dựng gia
đình thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Tư tưởng chủ đạo của văn bản
quan trọng này đòi hỏi chúng ta cần nhận thức rõ: "Gia đình là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội" [65, tr.12].
Với việc quan tâm vấn đề sâu rộng này, tác giả đề cập qua luận văn: Tư tưởng
"Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối đời sống đạo đức gia đỡnh ở Cà
Mau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và phân tích ảnh hưởng của
nó đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay. Trên cơ sở đó kiến nghị những
giải pháp cơ bản để kế thừa những giá trị và loại bỏ mặt hạn chế của tư tưởng "Hiếu"
trong Nho giáo nhằm xây dựng đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày nội dung tư tưởng "Hiếu'' và sự biến đổi của nó trong Nho giáo
Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, phân tích những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của tư tưởng "Hiếu" đối
với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng "Hiếu" đối với đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức
gia đình ở Cà Mau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức có nội dung rất phong phú, bao quát
nhiều lĩnh vực của đời sống con người. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, đề tài được giới
hạn trong việc nghiên cứu nội dung tư tưởng "Hiếu" của Nho giáo, những biến đổi của nó
trong ba giai đoạn phát triển chủ yếu (Nho giáo thời Tiên Tần, Nho giáo thời Hán, Nho
giáo thời Tống); tư tưởng "Hiếu" trong Nho giáo Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống đạo đức gia đình ở Cà Mau.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện được những yêu cầu trên, luận văn dựa trên quan điểm triết học và
đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản; đồng thời có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được
công bố của các tác giả (hoặc tập thể tác giả) trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như:
Phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic, hệ thống, điều tra anket, đối chiếu, so sánh, thống
kê để trình bày những vấn đề đặt ra trong luận văn
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung cơ bản của tư tưởng "Hiếu" trong Nho
giáo ở Trung Quốc. Phân tích sự du nhập và biến đổi của tư tưởng "Hiếu" ở Việt Nam,
chỉ ra những ảnh hưởng của nó trong việc giáo dục đạo đức gia đình ở một địa phương cụ
thể là Cà Mau.
Công trình này có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
TƯ TƯởNG “hiếu” trong nho giáo trung quốc
và việt nam
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời trong thời Xuân Thu chiến
quốc, là giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Hoa cổ đại trong quá trình
chuyển biến sang xã hội phong kiến, kéo dài từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đến thế
kỷ thứ III trước Công nguyên. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời đại
“vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh, lấn át “vương đạo”, chế độ tông pháp của nhà
Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo
tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con ” (quân bất quân, thần bất thần, phụ
bất phụ, tử bất tử) [84, tr.28].
Trước bối cảnh xã hội như vậy, các nhà tư tưởng có tâm huyết đua nhau tìm kiếm
nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. Đây là thời kỳ tư tưởng
Triết học Trung Quốc phát triển nở rộ, nhiều triết thuyết xuất hiện như: Nho gia, Pháp
gia, Mặc gia, Đạo gia… Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa đề phóng, bách gia tranh
minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Trong số bách gia xuất hiện thời Tiên Tần ở
Trung Quốc thì Nho giáo là một trong những học thuyết có sức sống lâu dài nhất. Hơn
2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc, đã trải qua bao triều đại khác nhau, bao
biến động, thăng trầm của xã hội nhưng địa vị thống trị của Nho giáo trong thượng tầng
kiến trúc vẫn được giữ vững. Các triều đại Phong kiến Trung Quốc xem Khổng Tử là
người thầy của muôn đời “Vạn thế sư biểu”. Khổng Tử cho rằng: xã hội loạn lạc là bởi
con người “vô đạo”, cần đưa con người trở về “hữu đạo” bằng con đường giáo hóa. “Đạo
hiếu” là một trong những phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo để giáo hóa con người
góp phần ổn định trật tự xã hội. Nối tiếp tinh thần trên, các nhà Nho đời sau tiếp tục bổ
sung và củng cố luận điểm đó của Khổng Tử.
1.1. Quan niệm của Nho giáo về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức trong
gia đình
Nho giáo từ đời nhà Hán trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến Trung quốc,
nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến, bản thân nó mang nhiều yếu tố bảo thủ,
tiêu cực. Tuy nhiên, đó là một học thuyết tồn tại hàng nghìn năm, nên cũng có những giá
trị mang tính phổ biến và chứa đựng nhiều tư tưởng triết học sâu sắc không thể không
thừa nhận, trong đó có nội dung giáo dục đạo đức gia đình.
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung
thâm thúy, ý nghĩa sâu xa có nhiều ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức và
cuộc sống con người. Coi gia đình là cơ sở của xã hội, Nho giáo nêu cao nguyên lý thiên
hạ quốc gia và dẫn giải rằng: gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà
là bản thân (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân) [6, tr.13].
Chính vì thế, muốn trị nước trước hết phải yên nhà (Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia)
[7, tr.21]. Bậc quân tử trước hết phải làm cho nhà mình tề chỉnh thì dân chúng mới làm
theo, do đó mà tề chỉnh được mọi nhà dân, trị yên được cả nước. “Một nhà nhân hậu thì
cả nước dấy lên nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước dấy lên lễ nhượng” (Nhất gia
nhân, nhất quốc hưng nhân; nhất gia nhượng, nhất quốc hưng nhượng) [7, tr.20]. Đạo Khổng
xem gia đình là một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người: Tu thân, tề gia,
trị quốc.
Nho giáo xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình. “Cha ra cha,
con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, thế là gia đạo chính”. Trong
ba mối quan hệ (cha con, chồng vợ, anh em) làm nên cái gọi là “gia đạo chính” ấy, thì
quan hệ cha con, anh em tiêu biểu bằng chữ Hiếu và chữ Đễ, đã được Nho giáo tôn lên
rất cao, đặt vào một vị trí đặc biệt quan trọng, trở thành cốt lõi của các quan hệ trong toàn
xã hội.
Nho giáo rất chú trọng yếu tố giáo dục gia đình, coi giáo dục gia đình là toàn bộ
giáo dục xã hội. Khổng Tử quan niệm, đạo đức gắn liền với chính trị, chính trị chẳng qua
là sự mở rộng của đạo đức. Trong học thuyết của ông, đạo đức gắn liền với chính trị,
quan hệ chặt chẽ với chính trị, bởi vì nó dựa trên cơ sở huyết thống, lấy huyết thống để
xác định liều lượng đậm nhạt của nhân ái. Cho nên, quan hệ huyết thống trong gia đình là
cơ sở học thuyết nói về người quân tử chú tâm vào gốc rễ, gốc rễ có vững thì đạo mới
phát sinh được và Hiếu Đễ chính là gốc rễ của Nhân, là hạt nhân của nội dung giáo dục
đạo đức.
Xưa nay, chưa một học thuyết nào, một trường phái nào như Nho giáo đã đề cập
chữ Hiếu một cách sâu sắc, cụ thể và đầy đủ đến thế. Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong
việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ trong gia đình và phát triển chúng thành những
quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây dựng những tình cảm và đức tính tốt trong gia
đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt trong đạo thờ vua, trị
nước. Nho giáo nói không che đậy: “Hiếu là để phụng sự nhà vua đấy, Đễ là để phụng sự
bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân chúng đấy” (Hiếu giả sở dĩ sự quân giã; đễ giả sở dĩ sự
trưởng giã, Từ giả sở dĩ sử chúng giã) [7, tr.20]. Nho giáo vì thế rất coi trọng việc giáo
dục trong gia đình. Đó là trường học đầu tiên để giáo dục con người đi vào xã hội. “Thân
yêu cha mẹ mình, vì đó mà cư xử có nhân với người đời” (Thân thân, nhi, nhân dân) [6,
tr.252].
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa những
thành viên trong cùng một gia đình, một dòng họ. Nho giáo kêu gọi họ yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống của gia đình,
của dòng họ. Những nghi thức ứng xử hàng ngày, những lời răn dạy của cha ông với
những gia huấn, gia ngữ được lưu truyền đến các đời con cháu. Việc thờ cúng ông bà cha
mẹ trong nhà gắn với việc thờ cúng tổ tiên trong họ, việc xây dựng nhà thờ, sửa sang mồ
mả, sưu tầm ghi chép gia phả... đều góp phần làm khắng khít thêm các mối quan hệ trong
gia đình, gia tộc. Đã có nhiều biểu hiện tốt đẹp của tình người được nảy sinh từ đó.
Gia đình trở thành hòn đá tảng của lâu đài phong kiến. Từ đạo đức trong gia đình
đến chính trị ngoài xã hội đều có liên quan đến nhau. Cũng vì vậy, muốn đánh giá được
phẩm chất của một người ở ngoài xã hội, muốn xem có nên cân nhắc và sử dụng họ không,
trước tiên người ta phải xem tư cách, thái độ của người ấy trong gia đình ra sao. Có đối xử
tốt trong gia đình, mới có thể đối xử tốt ngoài xã hội. “Bậc quân tử có ăn ở hợp lý ở trong
nhà, mới có thể dạy người trong nước” (Nghi kỳ gia nhân, nhi hậu khả dĩ giáo quốc nhân) [7,
tr.20], và “đã là người hiếu đễ mà lại thích phạm thượng điều đó có ít thôi. Đã không
thích phạm thượng mà lại thích làm loạn thì điều đó chưa có bao giờ” (Kỳ vi nhơn giã,
hiếu đễ, nhi háo phạm thượng giả, tiển hỹ. Bất háo phạm thượng, nhi háo tác loạn giả, vi
chi hữu giã) [5, tr.4]. Từ đó, Nho giáo khẳng định rằng sự giáo dục từ trong gia đình có tác
động mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước. “Đem những điều ấy
ra mà thi thố trong thiên hạ thì không có điều gì mà không làm được” (Thố chư thiên hạ vô
sở bất hành) (lễ ký).
Có thể nói, toàn bộ giáo dục gia đình theo Nho giáo nhằm tạo nên “phụ phụ tử tử,
huynh huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối quan hệ
cha con, anh em ấy thì “phụ từ tử hiếu, huynh lương đệ đễ” (cha nhân từ, con có hiếu, anh
rộng lượng, em kính trọng). Tác dụng của giáo dục gia đình theo Nho giáo là nhằm tạo ra
con người có nhân trong gia đình, từ đó có nhân với người khác. Thậm chí, chỉ cần mọi
người thực sự yêu thương cha mẹ bà con mình, thì tự nhiên thiên hạ sẽ được thái bình:
“Nhơn nhơn thân kỳ thân, trưởng kỳ trưởng, nhi thiên hạ bình” [6, tr.22]. Theo Nho giáo,
giáo dục gia đình là nhằm tạo ra nhà nhà hòa mục, cả nước dấy lên hòa mục, gia đình hòa
thuận là cái gốc góp vào mối quan hệ xóm làng đất nước hòa thuận. Do vậy, muốn xây
dựng một xã hội hòa mục thân ái, ổn định trật tự xã hội, cần phải có một chính quyền
thống nhất quy về đầu mối duy nhất là thiên tử, khắp nơi có trật tự, thế giới hòa mục
trong gia đình.
Tóm lại, theo Nho giáo, “Hiếu” có một ư nghĩa quan trọng nhằm xây dựng một xã
hội trật tự, ổn định, hòa mục. Gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của xã hội, sự ổn
định của gia đình có tác dụng trong việc củng cố xã hội. “Hiếu” có tác dụng tích cực
trong việc củng cố gia đình. Khổng Tử đã dùng đạo hiếu với mấu chốt là quan hệ huyết
thống để gắn kết xã hội tông pháp dòng tộc.
1.2. Tư tưởng “Hiếu” và sự biến đổi của nó trong lịch sử Nho giáo Trung
Quốc
1.2.1. Khái niệm “Hiếu"
Đạo hiếu theo nghĩa hẹp: Là chỉ sự hiếu thuận đối với cha mẹ của con cái, đó là
kính yêu, phụng dưỡng cha mẹ, vâng theo di huấn của tổ tiên, thực hiện đầy đủ giỗ kợ…
Lòng hiếu của những người cùng huyết thống còn bao gồm “hiếu đễ”, tức là lòng kính
yêu đối với anh chị.
Chẳng hạn, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự hiếu thuận đối với cha mẹ và xem đó
là một phẩm chất đạo đức cao đẹp của con người. Ông nói: “Làm cha mẹ, ai cũng lo cho
con, sợ con phóng túng mà hư thân mất nết, sợ con theo bạn xấu mà làm chuyện phi
pháp, mắc vòng tù tội. Cho nên đi chơi nhà ai thì nên cho cha mẹ biết trước, phòng khi
giao du với kẻ chẳng xứng đáng thì