Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vận dụng đề ra một số biện pháp đoàn kết của lớp XD DD&CN K4/1

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của người và là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cuộc cách mạng. Đảng lãnh đạo nhân nhân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đồng bào, làm không phải là công việc của một số người, của riêng đảng cộng sản. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói khá cặn kẽ, theo quan điểm bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. 14 chữ vàng trên được ghi trong sổ vàng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trở thành mục tiêu và phương châm hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đó là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Trong thời đại ngày nay tư tưởng đại đoàn kết của Người vẫn tỏa sáng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Đại đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5044 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vận dụng đề ra một số biện pháp đoàn kết của lớp XD DD&CN K4/1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU. T ư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của người và là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cuộc cách mạng. Đảng lãnh đạo nhân nhân làm cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đồng bào, làm không phải là công việc của một số người, của riêng đảng cộng sản. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói khá cặn kẽ, theo quan điểm bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”. 14 chữ vàng trên được ghi trong sổ vàng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trở thành mục tiêu và phương châm hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đó là tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Trong thời đại ngày nay tư tưởng đại đoàn kết của Người vẫn tỏa sáng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Đại đoàn kết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam. S inh thời, Bác Hồ có những bài dạy dành cho các cán bộ, chiến sĩ về tinh thần đoàn kết từ những việc làm gần gũi rất ý nghĩa. Người thường nói “đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”. Sức mạnh ấy đã thể hiện rõ trong cuộc đại cách mạng mùa thu tháng tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta. Chúng ta thắng là nhờ vào tinh thần đoàn kết quân dân một lòng, cả dân tộc là một chiến hào. Trong Di chúc thiêng liêng, Người vẫn canh cánh nhấn mạnh đến sự đoàn kết. Người chỉ rõ: “đoàn kết tạo nên sức mạnh tạo nên thắng lợi”. Thắng lợi đó được tạo nên từ đoàn kết trong Đảng và thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân. Không có đoàn kết trong Đảng sẽ không thực hiện được đại đoàn kết toàn dân và sẽ không có thắng lợi cho cách mạng. Người dặn dò và khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Ngày nay, dân tộc ta được sống tự do trên một nước độc lập do nhân dân làm chủ, càng cần phát huy tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Nguy cơ đất nước tụt hậu so với thế giới càng làm cho mỗi người dân Việt Nam thêm quyết tâm đoàn kết để xây dựng một nước Việt Nam mới, toàn diện. Không có thắng lợi nào không nhờ đoàn kết mà nên và không có đoàn kết nào không đem lại chiến thắng. Các cấp các ngành nên lấy sự phụng sự nhân dân làm trọng, tránh tư tưởng bảo thủ, tư lợi, bè phái, mọi quyền lợi đều xuất phát từ dân, ắt hẳn sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam mới sẽ càng vẻ vang. “Đại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của chúng ta”. Đó cũng chính là thực hiện câu nói của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” trên thực tế, chỉ có đại đoàn kết chúng ta mới có thể có đại thành công. Đ ại đoàn kết, một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nghiên cứu vấn đề này, chúng ta không chỉ tìm hiểu những giá trị cao quý trong di sản trí tuệ văn hóa của dân tộc mà còn để hiểu đầy đủ về những giá trị đó đối với sự nghiệp cách mạng và cuộc sống của chúng ta hôm nay và mai sau. Đầu tiên chúng ta cần phải nhắc đến cơ sở lý luận về sự hình thành đoàn kết trong truyền thống yêu nước của mỗi người dân, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước nó đã trở thành thuyền thống bền vững thấm sâu vào trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn Việt Nam. Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn ngàn năm lịch sử, găn liền với yếu tố cố kết cộng đồng dựng nước và giữ nước. Để tồn tại và phát triển, dân ta phải chống thiên tai, thường xuyên và liên tục, trị thủy các con sông lớn, cải tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước. Nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra sự cấu kết cộng đồng của những người cùng sống trên một dãi đất, có chung một kiểu sinh hoạt kinh tế, cùng một tâm lý. Nghĩa là cố kết thành một dân tộc. Mặt khác, dân ta phải thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải biết xiết chặt muôn người như một, chống xâm lược tạo nên truyền thống đoàn kết quý báo của dân tộc… Yêu nước, nhân nghĩa, trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với xã hội, lấy dân làm gốc, coi trọng khoan dung độ lượng, hòa hiếu, không gây thù oán, cố kết cộng đồng đã trở thành tình cảm tự nhiên của mỗi con người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước cố kết cộng đồng và triết lý nhân sinh, được khái quát thành tư duy chính trị, phép ứng xử của con người trong tình làng nghĩa nước. “Nước mắt nhà tan, giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Bác tổng kết: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị câm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nỗi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước…”. Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh là một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước. “Đoàn kết là sức mạnh”, đó là một chân lý giản đơn và dễ hiểu hầu như đất nước nào cũng nhắc tới. Kế thừa tư tưởng lớn đó của nhân loại, đặc biệt là thấm nhuần lời kêu gọi của VI.Lê -nin “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giáo dục cán bộ và nhân dân ta: “Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết Thành công thành công đại thành công”. Người đã trực tiếp xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc, tình đoàn kết quốc tế giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới. Trên bình diện này, có thể coi đại đoàn kết là một chiến lược lớn của cách mạng, chiến lược về tổ chức nhằm tập hợp lực lượng đến mức đông đảo nhất, rộng rãi nhất mọi tầng lớp nhân dân; thậm chí Người đã thuyết phục và thu phục đến từng dòng họ, từng con người vào mặt trận thống nhất của dân tộc. Đoàn kết còn thuộc phạm trù đạo đức, một tiêu chuẩn cần thiết của người cán bộ, đảng viên, đặc biệt đối với người làm công tác lãnh đạo, công tác quản lý. Nó nói lên sức thuyết phục, sức lôi cuốn của người lãnh đạo đối với mọi người, đối với quần chúng làm cho quần chúng đồng tâm nhất trí với mình, tự nguyện góp sức mình vào sự nghiệp chung. Từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, là các thế hệ người Việt Nam đã liên tiếp đoàn kết cùng nhau đứng dậy chống ngoại xâm, mặc dù thất bại (do nhiều nguyên nhân chúng ta không thể đề cập ở đây) song đều nói lên truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc. Hồ Chí Minh một mặt thấy được những hạn chế của các phong trào này, mặt khác thấy rõ yêu cầu khách quan của sự đoàn kết thống nhất trên cơ sở có đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, khoa học. Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển, tắm mình trong phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc, các nước tư bản, người rút ra những bài học kinh nghiệm đấu tranh không thể không có sự đoàn kết chặt chẽ của những người cùng khổ thành khối vững chắc. Đến với Lê - nin, đến với cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh nhận ra nhiều yếu tố, nhiều điều mới trong những người yêu chuộng hòa bình “Bôn - Sê – Vích”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy tấm gương đó ở V.I Lê -nin mà Người coi là “Người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta”. Hồ Chủ tịch viết: “Lê-nin không chỉ là một lãnh tụ, một người chỉ huy. Đó cũng là một người thầy có sức hấp dẫn, tính coi thường sự xa hoa, lòng ham mê công việc, đời sống trong sạch, sự giản dị và tâm hồn cao thượng của Người, làm cho quả tim của chúng tôi hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Nếu thiên tài và đạo đức của Lê -nin có sức hấp dẫn mọi người tập hợp quanh mình để tiến hành sự nghiệp cách mạng thì ở Hồ Chí Minh chúng ta càng thấy đậm nét hình ảnh đó. Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú ý kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ là hai nước đem lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học bổ ích về tập hợp lực lượng. Đó là đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái, các tôn giáo … nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng như chủ trương “Liên Nga, thân cộng, ủng hộ công nông”; “hợp tác Quốc - Cộng” của Tôn Trung Sơn... Trí tuệ của Người, tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người đã lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết quanh Người. Về phía Người, Người cũng coi việc đoàn kết với mọi người là một tiêu chuẩn về tư cách của một người cách mạng. Đúng như vậy, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” ngay từ bài đầu “Tư cách của một người kách mệnh” Người đã khuyên: “Tự mình phải - Cần kiệm - Hòa mà không tư”. “Hòa mà không tư” có nghĩa là đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp chung, không vì một lợi ích riêng tư nào. Nói như vậy không có nghĩa là không quan tâm đến lợi ích riêng, bởi vì Bác Hồ quan niệm trong lợi ích chung có lợi ích riêng của mỗi người. Đó là tấm gương đoàn kết chí công vô tư cao thượng và đúng đắn. Chúng ta đều biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người uyên thâm Nho học. Phải chăng “hòa mà không tư” gần với mệnh đề Nho giáo “Thân với mọi người mà không kết đảng, hòa hợp với mọi người mà không a dua” song được Người nâng lên ở tầm cao mới, đó là hướng sức mạnh đại đoàn kết, hướng hành động đoàn kết với mọi người vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng nước nhà giàu mạnh. Sự nghiệp chung mà có lúc Người gọi là nghĩa lớn (đại nghĩa) đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Người coi đó là mục đích cao cả của sự đoàn kết và theo Người thì “mục đích có đồng, chí mới đồng, chí có đồng tâm mới đồng, tâm đã đồng thì làm mới chóng”. Chỉ có hướng sự đoàn kết vì đại nghĩa mới tập hợp được đông đảo nhất quần chúng nhân dân. Chí đồng, tâm đồng chính là hai điều kiện bảo đảm cho sự đoàn kết chặt chẽ.... Đã từ lâu, rất nhiều cuộc chiến tranh chống lại quân xâm lược của nước ta. Từ cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đến Trần Hưng Đạo..., rồi đến cuộc chiến tranh chống đế quốc xâm lược cho thấy sự đoàn kết đã mang lại những thành công lớn lao. Phương Tây: Từ sự đoàn kết 13 bang của hợp chủng quốc chống lại thực dân Anh. Đến đại hồng quân Liên Xô trong thế chiến thứ 2. Về Kinh tế: Sự đoàn kết của người Nhật từ một nước lạc hậu và thất bại trong chiến tranh, vươn lên trở thành một cường quốc kinh tế như hiện nay. Về Xã hội: Sự đoàn kết của nhân dân công cuộc đổi mới, xóa đói giảm nghèo cũng mang lại những thành công lớn.Ngược lại: Loạn 12 xứ quân, sự chia cắt 2 miền nam bắc làm kéo dài cuộc chiến tranh và sự suy thoái. Đến hiện nay, việc mất đoàn kết trong chính trị của Thái Lan đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển về kinh tế và an sinh xã hội của nước này….Riêng ở bản thân cuộc đời của Hồ Chí Minh ta thấy được người là một tấm gương sáng quên mình vì đại nghĩa “Cả cuộc đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân”. Nhờ gương cao nghĩa lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thuyết phục được biết bao nhiêu người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau đoàn kết với Người. Để đại đoàn kết với mọi người, Chủ tịch Hồ Chí Minh sống quan tâm đến mọi người và chăm lo lợi ích cho mọi người. Bác Hồ quan tâm đến lợi ích của mọi tầng lớp người, từ người cộng sự, người phục vụ gần gũi đến quảng đại quần chúng, từ miền xuôi đến miền ngược, mọi tôn giáo, mọi dân tộc. Người quan tâm đặc biệt đến lợi ích vật chất: dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành. Ngoài sự chăm lo lợi ích vật chất, Người còn quan tâm đến đời sống văn hóa, đời sống tinh thần của mọi tầng lớp. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới lại quan tâm gửi thư cho các giới đồng bào tôn giáo nhân các ngày lễ bằng những lời lẽ vừa gần gũi vừa thân thương như Bác. Với các tăng ni phật tử, Người viết: “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn. Muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hi sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma”. nay với sự cố gắng của Với đồng bào Công giáo, Người viết: “Từ đồng bào, sản xuất sẽ ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui, việc đấu tranh giành thống nhất Tổ quốc, giữ gìn hòa bình càng chóng thắng lợi như bài hát sáng danh Thiên chúa trên các tầng giời, hòa bình cho mọi người lành dưới thế”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu cho chúng ta tấm gương đoàn kết rộng rãi bởi một lẽ rất giản đơn: Người muốn huy động tiềm năng của cả dân tộc vào sự nghiệp chung, Người luôn mong muốn thêm bạn bớt thù. Người tin ở tính hướng thiện của mọi người và trong bất cứ con người nào, Người cũng tìm thấy những nhân tố tốt đẹp đó. Tấm gương đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ Người có phương pháp xử lý đúng đắn những bất đồng, những cản trở cho sự đoàn kết. Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết song không phải là kiểu đại đoàn kết một chiều. Người luôn luôn khuyên đoàn kết song phải đấu tranh, đấu tranh để đoàn kết. Cái lý trong đấu tranh của Người là “Nói có sách mách có chứng” nhìn nhận và đánh giá đúng sự thật, không quá lời, không cường điệu sai lầm khuyết điểm. Cái tình trong đấu tranh của Người là nói đúng lúc, đúng chỗ, với thái độ nhẹ nhàng, bao dung, thân ái, vừa phê bình lại vừa chỉ bảo cho người khác hướng sửa chữa sai lầm. Phương châm ứng xử của Người là “biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”. Khoan dung và không chấp nhặt đối với những sai lầm có thể tha thứ, miễn sao giữ được những chân lý, những điều có tính nguyên tắc mà Người gọi là những điều “bất biến” trong câu nói “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Trong những năm cuối đời, Người nhắc nhở nhiều đến vấn đề tự phê bình và phê bình. Người phê phán bệnh nể nang trong quan hệ công tác bởi vì nể nang không thẳng thắn cũng là những nhân tố gây mất đoàn kết, thẳng thắn nhưng phương pháp và thái độ không đúng cũng không ích gì cho đoàn kết. Chính vì vậy, xử lý đúng đắn những bất đồng là một khía cạnh của tấm gương đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chúng ta phải học tập và noi theo. Thực trạng về vấn đề đoàn kết hiện nay, chúng ta có thể thấy rõ sự kế tục truyền thống vẻ vang của cha ông từ bao đời nay vẫn được giữ vững và phát huy từ Hội Phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay, trải qua lịch sử vẻ vang 81 năm (18/11/1930 - 18/11/2011). Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đã phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước của mọi người Việt Nam, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất thành một lực lượng hùng mạnh để đánh đuổi bọn thực dân đế quốc, giành lại độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do hạnh phúc cho đồng bào. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống nhất đã không ngừng được củng cố, mở rộng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của mỗi thời kỳ và đã có những cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc, trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Kế tục truyền thống của Hội phản đế đồng minh (1930-1936) và Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939), Mặt trận Việt Minh đã tập hợp đoàn kết vận động toàn dân tộc nổi dậy làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (ngày nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt nhân dân ta đã kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và không ngừng lớn mạnh trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam nhân dân ta đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Từ ngày nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên nhân dân tăng cường đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thách thức giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống mới, tháng 5 năm 1995 nhân kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Người, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động trong cả nước cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” nay là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”. Đây là cuộc vận động nhân dân rộng lớn trong cả nước của thời kỳ đổi mới có nội dung toàn diện, diễn ra trong thời gian dài. Những năm qua được sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, sự phối hợp tạo điều kiện của các cấp chính quyền, sự hưởng ứng tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cùng với các phong trào thi đua yêu nước khác, cuộc vận động đã đạt được những kết quả tốt đẹp trên các mặt góp phần từng bước nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giữ vững an ninh trật tự, ngày càng tạo ra các mối quan hệ gắn bó, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau giữa bà con nhân dân ở khu dân cư chúng ta. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 15 năm (2001-2015) để đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhân dân ta thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó trong lúc tình hình thế giới đang không ngừng thay đổi nhanh chóng, đòi hỏi phải động viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo động lực mới đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải ra sức làm tròn nhiệm vụ nặng nề là tiếp tục củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; động viên nhân dân tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, phát huy mọi nguồn lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức động viên nhân dân tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân trong sạch, vững mạnh; xây dựng chỉnh đốn Đảng để Đảng thực sự xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân; mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường đoàn kết quốc tế, tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của MTTQ Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ nêu trên. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, của việc xây dựng cộng đồng dân cư tự quản và thực hiện ngày càng tốt hơn 6 nội dung của cuộc vận động đòi hỏi bà con chúng ta phải bằng hành động thiết thực để tăng cường đoàn kết hơn nữa trong cộng đồng dân cư. Đoàn kết là sức mạnh vô địch: "Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao". Đoàn kết thực sự để phát huy dân chủ thực sự, để khai thác và phát huy nội lực, để xây dựng cộng đồng dân cư của chúng ta ngày một phát triển; xoá hộ đói, giảm hộ nghèo, tăng hộ giàu chính đáng và hợp pháp; đường làng, ngõ phố phong quang sạch đẹp; không có tệ nạn xã hội, không
Luận văn liên quan