Tương đương dịch thuật là vấn đề đã được
bàntới ngay từ khi dịch thuật ra đời. Nú luụn
là "khái niệm trung tâmcủabấtcứ công trình
nghiêncứu nàovềdịch thut " (Munday, [1]).
Trớc đây khi quan niệmdịch thuật giữa các
ngôn ngữ còn đơn giản vàlệ thuộc khá nhiều
vàocấu trúc luận và ngôn ngữhọc so sánh,
tơng đươngdịch thuật chỉ làsự giống hoặc
khác nhau giữa hai đơnvị ngôn ngữ nào đócủa
haihệ thống ngôn ngữ. Nhưng ngày nayvớisự
phát triển nhanh chóngcủa ngôn ngữhọc và
các khoahọc liên quan,vấn đềtơng đương
trong dịch thuật càng trở nên phứctạphơnrất
nhiều nhưng đồng thờicũng sángtỏhơn và
phụcvụhữu íchhơn cho công việc nghiêncứu
và thực hành dịch thuật. Nguyên nhân của sự
10 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5503 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương đương dịch thuật và tương đương trong dịch Anh - Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
141
Tương đương dịch thuật và tương đương trong dịch Anh - Việt
Lê Hùng Tiến*
Khoa Sau Đại học, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 27 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Tương đương dịch thuật luôn là vấn đề trung tâm của các cuộc bàn luận về dich thuật từ
khi dịch ra đời. Bài viết khảo sát những lý thuyết chính liên quan tới tương đương dịch thuật
(Savory, Catford, Koller, Snell - Hornby, Venuti, v.v…) và tìm hiểu việc thiết lập tương đương
dịch thuật giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Việc khảo sát cho thấy các cách phân loại về tương
đương dịch thuật có thể áp dụng cho dịch Anh - Việt, tuy nhiên một sự tương đương hoàn toàn
giữa bản gố và bản dịch là không thể đạt được và thành công của bản dịch phụ thuộc nhiều vào ưu
tiên của người dịch trong việc chọn lựa và thiết lập loại hình tương đương hợp lý.
1. Vấn đề tương đương dịch thuật trong lý
luận dịch*
1.1. Những quan niệm khác nhau về tương
đương dịch thuật
Tương đương dịch thuật là vấn đề đã được
bàn tới ngay từ khi dịch thuật ra đời. Nú luụn
là "khái niệm trung tâm của bất cứ công trình
nghiên cứu nào về dịch thuật" (Munday, [1]).
Trước đây khi quan niệm dịch thuật giữa các
ngôn ngữ còn đơn giản và lệ thuộc khá nhiều
vào cấu trúc luận và ngôn ngữ học so sánh,
tương đương dịch thuật chỉ là sự giống hoặc
khác nhau giữa hai đơn vị ngôn ngữ nào đó của
hai hệ thống ngôn ngữ. Nhưng ngày nay với sự
phát triển nhanh chóng của ngôn ngữ học và
các khoa học liên quan, vấn đề tương đương
trong dịch thuật càng trở nên phức tạp hơn rất
nhiều nhưng đồng thời cũng sáng tỏ hơn và
phục vụ hữu ích hơn cho công việc nghiên cứu
và thực hành dịch thuật. Nguyên nhân của sự
______
* ĐT: 84-4-37547435.
E-mail: lhtien@vnu.edu.vn
khác biệt này có thể là các tác giả xuất phát từ
cách nhìn khác nhau về bản chất của ngôn ngữ,
bản chất của dịch thuật và áp dụng các lý
thuyết ngôn ngữ học khác nhau vào nghiên cứu
dịch thụât.
Savory [2] đã đưa ra một danh sách rất nổi
tiếng tổng kết lại 12 quan niệm mâu thuẫn nhau
về tương đương dịch thuật, dưới đây là một vài
ví dụ:
1. Bản dịch phải dịch các từ ngữ của bản gốc.
2. Bản dịch phải dịch được các ý tưởng của
bản gốc.
3. Bản dịch phải đọc giống như bản gốc.
4. Bản dịch phải đọc giống như bản dịch.
5. Bản dịch phải phản ánh được phong cách
của bản gốc.
6. Bản dịch phải mang phong cách của
người dịch, v.v...
Khái niệm "tương đương dịch thuật"
(translation equivalence) thường xuất hiện khi
các tác giả đưa ra định nghĩa hoặc mô tả quá
trình dịch thuật. Nhưng khái niệm này đặc biệt
quan trọng khi vấn đề đánh giá, thẩm định bản
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
142
dịch được bàn đến. Catford [3] bàn đến "tương
đương chất liệu văn bản" (equivalent textual
material) khi ông đưa ra quan niệm dịch là sự
thay thế chất liệu văn bản ngôn ngữ gốc bằng
chất liệu văn bản tương đương ở ngôn ngữ
nhận. Sau đó tác giả (Catford [4]) đề xuất hai
loại hỡnh tương đương dịch thuật chính là
tương đương ngôn ngữ học (linguistic
equivalence) và tương đương ở cấp đọ văn hóa
(cultural equivalence). Nida và Taber [5] bàn
đến sự "tương đương động" (dynamic
equivalence) khi các tác giả bàn đến sự cần
thiết phải thiết lập một sự tương đương chức
năng, tức là sự tương đương về tác động của
bản dịch lên người đọc bản dịch và tác động
của bản gốc lên người đọc bản gốc và cho rằng
đó mới là mục đích đích thực của dịch thuật.
Wilss [6] đưa ra khái niệm "tương đương về
mặt thông báo" (communicative equivalence)
trong dịch thuật. Barkhudarop [7] đặt yêu cầu
cho việc dịch là phải tạo ra "nội dung không
thay đổi" giữa bản dịch và bản gốc, tức là
tương đương về ý nghĩa của văn bản. Newmark
[8] cũng có quan niệm tương tự nhưng tác giả
gắn ý nghĩa của văn bản với ý định của người
nói/ viết là cái mà người dịch cần tạo ra cho
bản dịch. Nhưng đồng thời tác giả lại nêu ra
một băn khoăn rất đáng quan tâm là liệu ý
nghĩa phải chuyển dịch là ý nghĩa do người viết
nhằm tạo ra hay chỉ là ý nghĩa được cấu tạo lại
của người dịch? Koller [9] xột tương đương
dịch thuật dựa trên ý nghĩa (meaning - based)
và phõn loại thành tương đương biểu vật, biểu
thái, dụng học và hình thức. Baker [10] chỉ ra
ba cấp độ tương đương dịch thuật dựa trên
hỡnh thức ngụn ngữ là tương đương ở cấp độ
từ, cấp độ câu và cấp độ văn bản.
Venuti [11] lại đặt vấn đề tương đương
xuất phát từ bản chất đặc biệt của dịch thuật:
“Dịch thuật thường được xem xét với một sự
nghi ngại vì nó không tránh khỏi việc nhập nội
các văn bản ngoại, tái tạo chúng với các giá trị
ngôn ngữ và văn hoá có thể thông hiểu được
với một bộ phận công chúng quốc nội nào đó”.
Và với định nghĩa dịch là “viết lại văn bản
ngoại với ngôn ngữ và diễn ngôn bản địa”.
Venuti thực sự đã đặt ra vấn đề tương đưong
dịch thuật một cách tổng thể nhất đồng thời
cũng phức tạp nhất. Những ý kiến khác nhau
của các tác giả trên cho thấy sự phức tạp khó
thống nhất của khái niệm này. Các tác giả trên
từ quan niệm về sự tương đương dịch thuật của
mình còn đề xuất rất nhiều tiêu chí để đánh giá
và thẩm định bản dịch.
Hiện tại các nhà lý luận dịch có ba quan
điểm khác nhau về tương đương dịch thuật như
sau:
1) Tương đương là điều kiện cần thiết để
dịch thuật thực hiện được và tương đương là
đích của dịch thuật, là cái có thể đạt được
(Catford, Nida, Toury, Koller).
2) Tương đương dịch thuật là không thể
thực hiện được và là điều cản trở cho việc
nghiên cứu dịch thuật (Snell - Hornby,
Gentzler).
3- Tương đương là cách phân loại hữu ích để
mô tả và nghiên cứu dịch thuật (Baker), là khái
niệm tận dụng để nghiên cứu dịch thuật và thực
hành dịch thuật chứ không hẳn là do đơn vị nào
đó của khái niệm này trong lý thuyết dịch.
Sở dĩ vấn đề tương đương dịch thuật trở
thành một vấn đề gai góc trong lý luận dịch
thuật và ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn
đề này rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau là
vì cách nhìn về bản chất của dịch thuật còn quá
khác nhau. Nhóm thứ nhất gồm các nhà nghiên
cứu nhìn nhận dịch thuật là một quá trình giao
tiếp mà trọng tâm là việc chuyển dịch thông
điệp từ ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ dịch
(quan điểm chức năng ngôn ngữ đối với dịch
thuật). Do vậy, khi chuyển dịch thông điệp từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác người dịch
thực ra là phải giải quyết các vấn đề thuộc hai
nền văn hoá chứ không chỉ là vấn đề ngôn ngữ
và người dịch đóng vai trò trung gian trong quá
trình giao tiếp liên văn hoá này. Việc dịch
(giao tiếp) sở dĩ thực hiện được là vì nó được
tiến hành ở bình diện liên văn hoá và tương
đương dịch được thiết lập là nhờ các yếu tố
như văn bản, văn hoá và tình huống tham gia
vào quá trình dịch. Nói cách khác là ngôn ngữ
trong sự hành chức của nó.
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
143
Nhóm thứ hai có quan điểm về dịch thuật
hẹp hơn rất nhiều so với nhóm thứ nhất và điều
này đã dẫn tới cái nhìn bi quan về dịch thuật
cũng như sự tồn tại của tương đương dịch thuật.
Họ quan niệm rằng dịch thuật giữa hai ngôn
ngữ là vấn đề hoàn toàn thuộc về ngôn ngữ học
và xem xét bản chất dịch thuật và tương đương
dịch thuật theo quan niệm này là vấn đề chuyển
dịch các đơn vị ngôn ngữ từ ngôn ngữ gốc sang
ngôn ngữ dịch một cách khá cơ giới, trên chất
liệu ngôn ngữ thuộc hệ thống. Do vậy sự tương
đương dịch thuật là khó đạt được, nếu không
nói là bất khả thi.
Nhóm thứ ba có quan điểm trung dung khi
căn cứ vào thực tế là bất luận thế nào đi chăng
nữa thì dịch thuật giữa các ngôn ngữ vẫn đã,
đang và sẽ được tiến hành một cách thành công.
Có thể tương đương một cách triệt để là bất
khả thi nhưng dù sao thì tương đương ở một
mức nào đó, ở bình diện nào không quan trọng
giữa hai ngôn ngữ vẫn được các nhà dịch thuật
thiết lập được và do đó dịch thuật vẫn được
tiến hành như một công cụ giao tiếp giữa
những người thuộc các ngôn ngữ khác nhau.
Có thể nói đây là quan điểm về tương đương
dịch thuật kết hợp cả khía cạnh ngôn ngữ học
lẫn giao tiếp khi xem xét quá trình dịch thuật.
1.2. Tương đương dịch thuật và tương đương
ngôn ngữ học so sánh
Lâu nay dịch thuật thường bị coi là hoạt
động ứng dụng của lý thuyết ngôn ngữ học so
sánh. Quan niệm lầm lẫn này xuất phát từ cách
hiểu giản đơn về dịch thuật (như đã phân tích ở
chương I), coi dịch thuật chỉ thuần tuý là
chuyển đổi các đơn vị ngôn ngữ (từ vựng, cấu
trúc ngữ pháp) từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
khác một cách cơ giới. Cùng với sự phát triển
của ngôn ngữ học theo hướng ngôn cảnh giao
tiếp, dịch thuật được nhìn nhận là quá trình
giao tiếp và từ đó các khái niệm của dịch thuật
cũng được xem xét đúng với bản chất của
chúng hơn. Tương đương dịch thuật cũng như
vậy, nó được phân biệt với tương đương của
ngôn ngữ học so sánh về bản chất. Chính sự
phân biệt quan trọng này mà dịch thuật được
nhìn nhận gần với bản chất của nó hơn.
Tương đương ngôn ngữ học so sánh dựa
trên các tương đồng giữa hai ngôn ngữ với tư
cách là hệ thống. Đó là sự tương đương liên
ngôn ngữ (interlingual equivalence) dựa trên các
giả thiết về một quan hệ tương đương giữa các
thành tố của hai hệ thống trừu tượng của hai ngôn
ngữ được so sánh. Tương đương ngôn ngữ học so
sánh cũng là nền tảng của dịch máy (từ điển, mẫu
câu và các quy tắc ngữ pháp cơ bản).
Tương đương dịch thuật dựa trên mối quan
hệ giữa các văn bản thực, các phát ngôn ở hai
ngôn ngữ khác nhau, các đơn vị ngôn ngữ
trong sự hành chức (language in use). Đây là
sự tương đương liên văn bản (Intertextual
equivalence) dựa trên sự quan sát thực tế giữa
các thành tố của văn bản thực sự ở ngôn ngữ
gốc và ngôn ngữ dịch. Đây cũng là nền tảng
của dịch thuật thông thường của con người.
Hãy xem xét và so sánh các phát ngôn tiếng
Anh được dịch bằng máy (dựa trên sự tương
đương ngôn ngữ học so sánh) và do người dịch.
V
- I love you
- Blood is thicker than water
- Damn you!
- Best Buy
Dịch máy (EVitran 2.0)
- Tôi yêu anh
- Máu thì dày hơn nước
- Chê trách anh!
- Mua tốt nhất
Người dịch
- Anh yêu em
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã
- Đồ chết tiệt!
- Sự lựa chọn hoàn hảo
Ơ
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
144
2. Các loại hình tương đương dịch thuật
Hiện có nhiều cách phân loại tương đương
dịch thuật khác nhau dựa trên những cơ sở
khác nhau. Có 4 cách phân loại tương đương
khá phổ biến như sau:
1) Tương đương dựa trên hình thức (form-
based equivalence): tương đương ở cấp độ từ,
cấp độ câu và cấp độ văn bản (Baker).
2) Tương đương dựa trên ý nghĩa (meaning
- based): tương đương biểu vật, biểu thái, dụng
học và hình thức (Koller).
3) Tương đương dựa trên chức năng
(Function - based): tương đương động và
tương đương hình thức (Nida).
4) Tương đương dựa trên số lượng các
phần tương đương (Quantity based): tương
đương một với một, một với nhiều hơn một,
một với phần nhỏ hơn một, bất tương đương.
Dưới đây ta sẽ xem xét một số loại hình
tương đương hay được nói tới nhất và được
ứng dụng nhiều khi nghiên cứu, đánh giá bản
dịch và bàn về dịch thuật.
1. Tương đương dựa trên số lượng các phần
tương đương (Quantity based equivalence)
a- Tương đương một - một:
- Là kiểu tương đương trong đó một cách
diễn đạt ở ngôn ngữ gốc chỉ có một cách diễn
đạt tương đương ở ngôn ngữ dịch. Kiểu tương
đương này thường xảy ra ở hệ thống thuật ngữ.
Ví dụ:
tu
Xây dựng:
Batching plant Trạm trộn
Bond stress Ứng suất dính bám
Compressive Test Thí nghiệm nén mẫu
Geo-textile Vải địa kỹ thuật
Điện lực:
Capacitance across the mains Giá trị điện dung đi qua mạch chính
Grounding system Hệ thống nối đất
Lead wires Dây tín hiệu
Pull box Hộp kéo dây
b- Tương đương một đối với nhiều hơn một: (One to many equivalence)
Một cách diễn đạt ở ngôn ngữ gốc có nhiều cách diễn đạt tương đương ở ngôn ngữ dịch.
Ví dụ:
Nuôi - To breed
- To feed
- To raise
- To keep
- To support
Bamboo Tre
Nứa
Trúc
Mai
Vầu
nm
c- Tương đương một với một bộ phận nhỏ
hơn một (One to part of one)
Một cách diễn đạt ở ngôn ngữ gốc có nhiều
nét nghĩa mà một cách diễn đạt ở ngôn ngữ
dịch chỉ tương đương với một trong các nét
nghĩa đó. Ví dụ: Từ “Bush” trong tiếng Anh
Úc có nội hàm rất rộng thường được dùng dể
chỉ vùng đất hoang dã xa xôi hẻo lánh, kể cả sa
mạc của nước Úc đôi khi được dịch bằng từ
'thảo nguyên” ở tiếng Việt có nghĩa hẹp hơn rất
nhiều (chỉ tương đương với một nét nghĩa của
từ “bush”).
d- Bất tương đương: (Nil-equivalence)
Một cách diễn đạt có ở ngôn ngữ gốc nhưng
không có ở ngôn ngữ dịch có nguyên nhân từ sự
bất tương đồng ngôn ngữ và văn hoá.
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
145
Ví dụ: sushi, pizza, internet, nano
Bánh Chưng = Chung cake/Banhchung
áo dài = aodai Mỳa khốn: khen dance
Wallaby (một loại thú có túi nhỏ ở úc)
2. Tương đương dựa trên ý nghĩa (Meaning
- based equivalence) của Koller:
a- Tương đương biểu vật (Denotative
equivalence)
Là kiểu tương đương trong đó cách diễn
đạt ở ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch đều chỉ
cùng một khái niệm, sự vật trong thực tại. Đây
là sự tương đương nội dung ngoài ngôn ngữ
của văn bản (hai văn bản có cùng nghĩa sở chỉ).
Yếu tố nội dung ngoài ngôn ngữ và kiểu loại
tương đương hướng tới yếu tố này là tương
đương biểu vật (denotative equivalence). Đây
cũng là mục đích của bất kỳ quá trình dịch
thuật nào: đó là phải đạt được sự quy chiếu tới
sự vật, hiện tượng tương đương của các đơn vị
ngôn ngữ gốc và dịch. Ví dụ: Khi dịch cụm từ
“the Great Fire of London” sang tiếng Việt
dịch giả phải làm cho đọc giả tiếng Việt liên hệ
tới vụ hoả hoạn lớn năm 1666 ở Luôn Đôn. Có
bản dịch tiếng Việt đã dịch thành “cuộc khởi
nghĩa Great Fire” (?) khiến người đọc tiếng
Việt liên hệ tới một hiện tượng khác hẳn so với
hiện tượng mà nguyên tác nói tới.
b- Tương đương biểu cảm (connotative
equivalence)
Là kiểu tương đương dựa trên ý nghĩa biểu
cảm của ngôn ngữ. Ngoài ý nghĩa biểu vật, từ
ngữ của cả ngôn ngữ gốc và ngôn ngữ dịch cần
tạo ra các giá trị giao tiếp tương đương khi
được người đọc bản ngữ của hai ngôn ngữ tiếp
nhận.
Các ý nghĩa biểu thái (connotations) được
thể hiện qua việc lựa chọn từ ngữ. Yếu tố này
dẫn tới kiểu loại tương đương biểu thái
(connotative equivalence). Sự tương đương này
được thiết lập trên cơ sở các cấp độ khác nhau
về phong cách chức năng (register), các bình
diện xã hội, địa lý và tần số sử dụng được phản
ánh trong ngôn ngữ, v.v... Kiểu loại tương
đương này còn được gọi là tương đương về
phong cách (stylistic equivalence).
Đây là sự tương đương được tạo bởi cách
lựa chọn từ ngữ cụ thể từ các diễn đạt đồng
nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau như
văn phong, cách sử dụng, xã hội, địa phương,
tần số sử dụng, v.v…
Dưới đây ta sẽ xem xét một số kiểu loại
tương đương biểu cảm trong thực tiễn dịch
thuật Anh - Việt.
- Khía cạnh cấp độ lời nói (speech level)
gồm: các giá trị phong cách khác nhau như:
Nghi thức, gọt giũa, thơ ca, trung hoà, khẩu
ngữ, tiếng lóng, thô tục. Vớ dụ: Giá trị biểu
cảm dựa trên cấp độ ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ nghi thức: Thư từ giao dịch
công việc
Dear Sir/Madam,
As I am deeply interested in the salesman
career, I write to your company in the hope that
you will be able to employ me.
[…]
I am earnest in my desire to offer my
service to you. I therefore sincerely hope that
you will give due consideration to my
application. I look forward to receiving your
reply.
Faithfully Yours,
Kính gửi Quí ông/bà,
Tôi viết thư này với mong muốn được quý
công ty tuyển vào vị trí nhân viên bán hàng,
bởi đây là công việc phù hợp với năng lực và
sở thích của tôi.
[…]
Với tất cả lòng nhiệt thành, tôi rất mong
muốn được phục vụ trong công ty. Tôi hy vọng
Quí ông/bà sẽ lưu tâm xem xét đơn xin việc
của tôi. Kính mong nhận được hồi âm của Quí
ông/bà .
Kính thư.
- Ngôn ngữ thi ca:
Jl
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
146
A red, red rose
Robert Burns
As fair art thou, my bonnie las,
So deep in luve am I,
And I’ll luve thee stil, my dear,
Till a’ seas gang dry.
Bông hồng thắm
N.X. Thơm dịch
Em đẹp lắm, ơi cô gái nhỏ
Anh đắm say em tự bao giờ
Anh sẽ mãi còn yêu em đó
Yêu đến ngày biển cạn sông khô
Jkl
Cách diễn đạt ở cả bản gốc tiếng Anh và
bản dịch tiếng Việt đều có chung một đặc điểm
của ngôn ngữ thi ca với những lối nói rất ít
dùng trong đời thường, có tính vang và sáo
nhằm tạo giá trị thẩm mĩ đặc biệt của thi ca. Để
tạo được tương đương kiểu loại này người dịch
phải có trình độ ngôn ngữ ít nhất là gần ngang
bằng với tác giả nguyên bản.
- Giá trị biểu cảm dựa trên nghi thức xã hội
(connotation of socially determined usage)
Khía cạnh quan hệ xã hội: ngôn ngữ người có
học vấn, người lao động, quân nhân, sinh viên,
v.v...
Ví dụ: Ngôn ngữ thượng lưu
Your majesty Tâu bệ hạ
Sir Thưa ngài
- Giá trị biểu cảm dựa trên quan hệ địa lý
hoặc nguồn gốc (connotation of geographical
relation or origin). Khía cạnh quan hệ địa lý:
chung chung, phương ngữ, thổ ngữ, v.v...
Ví dụ:
As fast as a kangaroo Nhanh như
Kăng-gu-ru
Cách dịch này tạo ra giá trị biểu cảm riêng
cho thấy người nói dùng tiếng Anh Úc (chỉ
nguồn gốc, địa phương của người nói). Cách
dịch thuần Việt “nhanh như sóc” sẽ làm mất đi
sắc thái nghĩa này.
- Giá trị biểu cảm dựa trên hiệu quả tu từ
(connotation of stylistic effect)
Khía cạnh phương tiện: ngôn ngữ nói, ngôn
ngữ viết. Khía cạnh hiệu quả tu từ: cổ, khoa
trương, kiểu cách, thời thượng, uyển ngữ, giản
dị, v.v...
Ví dụ: Dịch uyển ngữ
Cách nói bình thường:
• The poor
Người nghèo
• HIV patients
Bệnh nhân HIV
Uyển ngữ:
• The underprivileged
Người kém may mắn/có hoàn
cảnh khó khăn
• People living with HIV
Những người sống chung với/ có HIV
Kl;
Nếu người dịch không ý thức được kiểu
loại tương đương này sẽ dễ dàng tạo ra bản
dịch bất tương đương về mặt ý nghĩa và bỏ qua
hiệu quả tu từ rất quan trọng này.
Tái tạo các tương đương phong cách là
nhiệm vụ khó khăn của người dịch và là việc
không thể hoàn thành một cách triệt để. Để đạt
được tương đương dịch thuật này, người dịch
phải phân tích cho được các đặc điểm phong
cách ngôn ngữ bản gốc, các yếu tố cấu trúc sử
dụng để đạt được phong cách đó, gắn chúng
với các khía cạnh phong cách nói trên và tái tạo
lại chúng ở ngôn ngữ dịch bằng các phương
tiện diễn đạt phù hợp.
- Giá trị biểu cảm dựa trên ngữ vực
(register). Khía cạnh phong cách chức năng:
thường dùng, kỹ thuật, nghề nghiệp.
Ví dụ: ngôn ngữ kỹ thuật
First of all, steel plates and bars are taken
from the stockyard to the preparation shop.
L.H. Tiến / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Ngoại ngữ 26 (2010) 141-150
147
Here they are cleaned by shot blasting. Then,
they are coated with primer paint to prevent
corrosion. Later they are cut and shaped
automatically by machines.
Trước hết, các tấm và thanh thép được đa
ra khỏi kho đưa tới phân xưởng tiền chế. ở đây
chúng được làm sạch bằng việc phun cát. Sau
đó chúng được bọc bằng một lớp sơn chống gỉ
để ngăn sự ăn mòn. Tiếp theo, chúng được cắt
và tạo phôi tự động bằng máy.
Trong bản gốc có rất nhiều thuật ngữ ngành
thép và bản dịch cũng có các thuật ngữ tương
đương tạo nên giá trị biểu cảm tương tự cho
người đọc tiếng Việt.
- Giá trị biểu cảm dựa trên sự định giá
(evaluation) và thái độ (attitude). Khía cạnh
đánh giá: khen ngợi, chê bai, giễu cợt, v.v...
Ví dụ:
die chết (trung tính)
pass away đi xa, qua đời (trang trọng)
kick the bucket nghẻo, toi đời (diễu cợt)
3. Tương đ