Leptospirosis là bệnh do Leptospira interrogansgây ra. Bệnh xảy ra trên tất cả
các loài thú. Nó là một trong các bệnh nội vùng lây lan quan trọng giữa thú và người.
Bệnh gây nhiễm trùng máu, viêm thận kẽ, vàng da xuất huyết và sẩy thai ởhầu hết các
loài, đồng thời cũng là nguyên nhân gây viêm vú ởbò và bệnh viêm mắt có tính chu
kỳ ởngựa (Blood, 1989).
Theo các chuyên gia nghiên cứu về Leptospirathì bệnh này có tất cảmọi nơi
trên thếgiới, gây thiệt hại đáng kểcho ngành chăn nuôi và ảnh đến sức khỏe con
người ởnhiều quốc gia, đặc biệt là các nước vùng nhiệt đới (Adolf Weil, 1886; Blood,
1989; Epstein, 1995; Trevejo, 1998; Ko, 1999). Bệnh Leptospirosis rất khó tiêu diệt vì
nó đa dạng vềnguồn nhiễm, như động vật ởnhững ao hồ, động vật hoang dã và đặc
biệt là động vật nuôi trong gia đình, đồng thời Leptospiracó thểtồn tại rất lâu trong
môi trường tựnhiên. Đặc biệt bệnh này càng khó kiểm soát ởnhững nước nông nghiệp
phát triển (kéo theo đàn gia súc đông đúc) và có tình trạng vệsinh môi trường kém
(tạo điều kiện mầm bệnh phát triển).
Tại Việt Nam, bệnh này lâu nay ít được chú ý cảvềmặt pháp luật cũng nhưvề
nhận thức của nhân dân. Việc mua bán gia súc bừa bãi không được kiểm tra chặt chẽ
vềmặt thú y làm cho nguy cơnhiễm bệnh ởgia súc ngày một tăng, đồng thời nguy cơ
lây nhiễm sang người cũng tăng theo. Do đó, nguy cơnhiễm bệnh Leptospirosis ởViệt
Nam tăng cao. Như đã nói ởtrên, việc điều trịbệnh này là rất khó khăn nên chính vì
vậy cần có những biện pháp phòng ngừa bệnh có hiệu quảcao. Cho nên sản xuất
vaccine phòng bệnh do vi khuẩn Leptospiralà một yêu cầu cấp thiết.
19 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3154 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vaccine phòng bệnh do vi khuẩn leptospira, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ SINH HỌC
F G
VACCINE PHÒNG BỆNH DO VI KHUẨN
Leptospira
Giáo viên giảng dạy: PGS.TS Nguyễn Ngọc Hải
Sinh viên: Trần Nam Trung
Lớp: DH06SH
MSSV: 06126172
2
I. Đặt Vấn Đề
Leptospirosis là bệnh do Leptospira interrogans gây ra. Bệnh xảy ra trên tất cả
các loài thú. Nó là một trong các bệnh nội vùng lây lan quan trọng giữa thú và người.
Bệnh gây nhiễm trùng máu, viêm thận kẽ, vàng da xuất huyết và sẩy thai ở hầu hết các
loài, đồng thời cũng là nguyên nhân gây viêm vú ở bò và bệnh viêm mắt có tính chu
kỳ ở ngựa (Blood, 1989).
Theo các chuyên gia nghiên cứu về Leptospira thì bệnh này có tất cả mọi nơi
trên thế giới, gây thiệt hại đáng kể cho ngành chăn nuôi và ảnh đến sức khỏe con
người ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước vùng nhiệt đới (Adolf Weil, 1886; Blood,
1989; Epstein, 1995; Trevejo, 1998; Ko, 1999). Bệnh Leptospirosis rất khó tiêu diệt vì
nó đa dạng về nguồn nhiễm, như động vật ở những ao hồ, động vật hoang dã và đặc
biệt là động vật nuôi trong gia đình, đồng thời Leptospira có thể tồn tại rất lâu trong
môi trường tự nhiên. Đặc biệt bệnh này càng khó kiểm soát ở những nước nông nghiệp
phát triển (kéo theo đàn gia súc đông đúc) và có tình trạng vệ sinh môi trường kém
(tạo điều kiện mầm bệnh phát triển).
Tại Việt Nam, bệnh này lâu nay ít được chú ý cả về mặt pháp luật cũng như về
nhận thức của nhân dân. Việc mua bán gia súc bừa bãi không được kiểm tra chặt chẽ
về mặt thú y làm cho nguy cơ nhiễm bệnh ở gia súc ngày một tăng, đồng thời nguy cơ
lây nhiễm sang người cũng tăng theo. Do đó, nguy cơ nhiễm bệnh Leptospirosis ở Việt
Nam tăng cao. Như đã nói ở trên, việc điều trị bệnh này là rất khó khăn nên chính vì
vậy cần có những biện pháp phòng ngừa bệnh có hiệu quả cao. Cho nên sản xuất
vaccine phòng bệnh do vi khuẩn Leptospira là một yêu cầu cấp thiết.
3
II. Tổng Quan
1. Leptopira
1.1 Lịch sử phát hiện bệnh
Bệnh do Leptospira interrogans gây ra được phát hiện đầu tiên vào năm 1850
trên chó tại Stuttgart (Đức). Năm 1886, Adolf Weil ở Heidelberg (Đức) đã mô tả dấu
hiệu lâm sàng của bệnh này là sốt phát ban, sưng mật, đặc biệt bệnh xuất hiện đột ngột
kèm theo sốt, lách to, vàng da và viêm thận.
Năm 1916, người ta đã phát hiện ra L. Icterohaemorrhagiae là một serovar của
Leptospira interrogans gây bệnh Weil ở Nhật Bản. Inada và cộng sự (1918) đã phát
hiện serovar L. Hebdomadis gây sốt 7 ngày ở Nhật Bản và ông cũng thấy chủng L.
Autumnalis gây sốt mùa thu ở Nhật Bản vào năm 1925. Theo Blood (1989), bò ở Úc
và Anh nhiễm chủ yếu là L. Hardjo và serovar này cũng là nguyên nhân chính gây sẩy
thai ở bò (Ellis, 1982). Những nghiên cứu tiếp theo đã tìm thấy hàng loạt các serovars
khác nhau của Leptospira: L. Pyrogenes và L. Bataviae được phát hiện đầu tiên ở
Indonesia năm 1923 và 1926; L. Grippotyphosa ở Liên Xô năm 1928; L. Canicola ở
Hà Lan năm 1933; L. Sejroe ở Đan Mạch năm 1939….. Đến nay, người ta đã phát hiện
ra hơn 200 serovars khác nhau của Leptospira interrogans ở khắp nơi trên thế giới
(Terpstra, 2002).
Tại Việt Nam, bệnh được Ragiot và Souchard phát hiện lần đầu tiên trên người
năm 1931. Sau đó, xảy ra vụ dịch ở Lai Châu (1964) gây thiệt hại nhiều gia súc và
nhiễm cho cả người (Trần Thanh Phong, 1996). Đến nay, bệnh có ở tất cả các vùng
miền trong cả nước.
1.2 Tổng quát về Leptospira
Leptospira gây bệnh xoắn khuẩn, gọi là Leptospirosis. Đây là một bệnh lây
nhiễm truyền từ động vật sang người. Bệnh bắt đầu bằng những cơn sốt, có thể làm
suy yếu thận, xuất huyết phổi, tác động đến gan (gây vàng da) và nhiều triệu chứng
khác. Căn bệnh này tác động đến hàng chục triệu người mỗi năm và đặc biệt cao tại
các khu vực nhiệt đới. Do tính đa dạng của các triệu chứng, bệnh Leptospira khó chẩn
đoán nên tỉ lệ tử vong tại một số vùng có thể lên đến 20%-25%. Năm 1886, Weil
(người Đức) đã phát hiện ra bệnh Leptospirosis ở người lần đầu tiên; nhưng đến năm
1915, các nhà khoa học Nhật Bản và Pháp mới cùng tìm thấy xoắn khuẩn L.
interrogans.
Về phân loại thì Leptospira thuộc giới Monera, ngành Spirochaetes, họ
Leptospiraceae, giống Leptospira (Noguchi., 1917). Các loài gồm có:L. alexanderi, L.
biflexa, L. broomii, L. borgpetersenii, L. fainei, L. inadai, L. interrogans, L. kirschneri,
4
L. licerasiae, L. meyeri, L. weilii, L. noguchii, L. santarosai, L. wolbachii, L. kmetyi, L.
wolffii, L. genomospecies 1, L. genomospecies 3, L. genomospecies 4, L.
genomospecies 5. Trong số đó, người ta phân ra thành các loài gây bệnh, không gây
bệnh và loài trung gian
Các loài gây bệnh
Leptospira interrogans
Leptospira kirschneri
Leptospira noguchii
Leptospira alexanderi
Leptospira weilii
Leptospira genomospecies 1
Leptospira borgpetersenii
Leptospira santarosai
Leptospira kmetyi
Các loài trung gian
Leptospira inadai
Leptospira fainei
Leptospira broomii
Leptospira licerasiae
Leptospira wolffii
Các loài không gây bệnh
Leptospira biflexa
Leptospira meyeri
Leptospira wolbachii
Leptospira genomospecies 3
Leptospira genomospecies 4
Leptospira genomospecies 5
Đặc điểm sinh vật học
5
Hình thể:
rất mảnh, đường
kính 0,1- 0,2μm,
dài 5- 25μm. Quan
sát dưới kính vi
khuẩn nền đen
thấy vi khuẩn di
động mạnh. Thường nhuộm theo phương pháp nhuộm thấm bạc Fontana-Tribondeau
mới phát hiện được vi khuẩn, khi đó vi khuẩn nhìn thấy mảnh như sợi tóc, hai đầu
cong như móc câu. Dưới kính hiển vi điện tử phóng đại khoảng x 10.000 lần mới thấy
các vòng xoắn nhỏ, sát nhau
Tính chất nuôi cấy: đây là xoắn khuẩn duy nhất nuôi cấy được trong điều kiện
hiếu khí. Thường nuôi trong môi trường lỏng có thêm huyết thanh động vật (thỏ) tươi
(sản xuất theo Terskich hoặc Korthoff); pH 7,2- 7,5; nhiệt độ 28-30oC và giàu oxy.
Leptospira mọc chậm, sau 6- 10 ngày mới phát triển tốt (đặc điểm nuôi cấy là làm vẩn
nhẹ môi trường như khói thuốc lá).
Sức đề kháng: nói chung các Leptospira có sức đề kháng yếu, song cao hơn
các xoắn khuẩn khác; chết nhanh trong môi trường acid. Leptospira có thể sống tự do
ở trong đất, trong nước ngọt và trong môi trường mặn (sống được hàng tháng) nhưng
có ánh sáng mặt trời thì nhanh chết.
Cấu tạo kháng nguyên: dựa vào cấu trúc kháng nguyên mà phân loại thì
Leptospira được chia ra làm 20 nhóm; mỗi nhóm có nhiều type huyết thanh. Các type
huyết thanh có nhiều yếu tố kháng nguyên trùng chéo. Ở Việt Nam thường gặp 12 type
huyết thanh sau:
L. australis L. canicola
L. autumnalis L. grippothyphosa
L. bataviae L. hebdomalis
L. ictero- haemorrhagiae L. ponoma
L. mitis L. saxkoebing
6
L. poi L. sejroe
1.3 Cách sinh bệnh
Cơ chế phát bệnh của Leptospira interrogans không được biết tường tận do sự
phong phú về các serovars gây bệnh.
Thông thường xoắn khuẩn Leptospira gây bệnh cho động vật sau khi vào cơ
thể, chúng xâm nhập vào máu và nhân lên nhanh chóng tại đây. Sau 1-2 ngày có khi
đến 1 tuần, xoắn khuẩn gây hiện tượng nhiễm trùng huyết. Trong giai đoạn này, có thể
phân lập Leptospira trong máu và hầu hết các phủ tạng cũng như trong dịch não tủy.
Pha nhiễm trùng huyết sẽ chấm dứt cùng với sự xuất hiện kháng thể kháng Leptospira
trong máu. Các kháng thể này được phát hiện sau 5-10 ngày và đạt mức tối đa khoảng
3 tuần sau đó. Hiệu giá kháng thể thường đạt từ 1/1.000 đến 1/100.000 (với thử
nghiệm MAT) sau đó giảm dần. Sau giai đoạn nhiễm trùng huyết, Leptospira có thể
định vị ở ống lượn gần của thận. Tại đây, chúng nhân lên và bài tiết vào nước tiểu.
Tùy thuộc vào từng con vật mắc bệnh và từng serovars gây nhiễm và thời gian mà
cường độ bài trùng qua nước tiểu có thể thay đổi.
Ngoài ra, Leptospira còn sinh độc tố phá hủy hồng cầu, phá hủy thành mao
mạch, gây vỡ hoặc tắc nghẽn mao mạch dẫn đến hoại tử và xuất huyết ở niêm mạc.
7
Leptospira sau khi xâm nhập vào cơ thể qua đường da và niêm mạc, chúng tự
nhân lên và tạo tình trạng bạo huyết, sau 7-10 ngày gây nhiễm dẫn đến những biểu
hiện lâm sàng (hoàng đản, thiếu máu…). Sau đó, Leptospira theo máu đến thận và
sống trong tiểu quản thận gây viêm thận (albumine niệu, ure huyết), đến gan gây viêm
gan, đến não gây viêm màng não và đau cơ.
Thời kỳ nung bệnh kéo dài khoảng 10-20 ngày, tùy thuộc vào trạng thái cơ thể,
mức độ chăm sóc, nuôi dưỡng, đường xâm nhập, số lượng và độc tố của mầm bệnh.
Sau khi khỏi bệnh, vật có miễn dịch nhưng chỉ miễn dịch với serovars đã gây bệnh
trước đó.
1.4 Triệu chứng
1.4.1 Dạng cấp tính
Bại huyết phát triển nhanh sau vài giờ nhiễm, sốt cao 40-41oC và suy nhược
nặng.
Có thể chia làm 2 thể:
- Thể thương hàn: Vật bệnh có biểu hiện xuất huyết trầm trọng viêm kết mạc mắt với
nhũng điểm xuất huyết ở da và niêm mạc, ói ra máu và phân sậm màu có máu, thú bị
mất nước rất nhanh và chết trong 24 ngày cùng với giảm thấp thân nhiệt, thường thấp
hơn bình thường.
- Thể hoàng đản : Chó bệnh có biểu hiện viêm kết mạc mắt, hoàng đản, vàng da khó
thở tăng dần cùng với kém ăn, ói mửa, nếu không chữa trị trong giai đoạn cuối chó có
sự tăng cao nhiệt độ khó thở, hơi thở hôi. Tiêu chảy đôi khi xuất huyết và những biểu
hiện viêm não trước khi hắt hơi, thú chết trong khoảng 5-8 ngày mắc bệnh
1.4.2 Thể bán cấp tính và mãn tính
- Thể này tương ứng với sự phát triển hội chứng sinh urea huyết hậu quả của
viêm thận mà một trong những biểu hiện là chứng tiểu nhiều, chứng khát nước rất
nhiều cùng với ói mửa và tiêu chảy. Sau một thời gian hôn mê do urea huyết chó sẽ
chết.
- Thể thở khó có mùi urea ở miệng và xáo trộn hô hấp –viêm màng móng mắt, viêm
cơ….
1.5 Bệnh tích
1.5.1 Thể cấp tính
- Thể thương hàn:
+ Viêm dạ dày ruột xuất huyết.
8
+ Xuất huyết da và các niêm mạc.
+ Có thể gặp gan sưng, hạch bạch huyết xuất huyết
- Thể hoàng đản:
+ Da vàng ở bụng, gang bàn chân, lỡ tai.
+ Niêm mạc vàng.
+ Bàng quang chứa nhiều nước tiểu vàng sậm và có thể xuất huyết.
1.5.2 Thể bán, mãn tính
- Viêm thận kẻ hay viêm thận mãn tính.
- Vết lở ở miệng và lưỡi có thể gặp trên chó có urea trong máu.
1.6 Tính miễn dịch
Tính miễn dịch được hình thành vào giai đoạn 2 của bệnh do Leptospira gây
ra. Thể cấp tính được đề cập như là giai đoạn miễn dịch, sự biến mất cảu vi trùng khỏi
dòng máu xảy ra đồng thời với sự xuất hiện kháng thể. Sự trầm trọng về lâm sàng của
bệnh thường xuất hiện cùng với những biểu hiện trầm trọng về mô học.
Sự sinh phức hợp miễn dịch gây viêm ở hệ thần kinh trung ương. Phức hợp
miễn dịch trong hệ tuần hoàn ở mức độ khác nhau có liên quan đến các mức độ trầm
trọng về mặt triệu chứng. Ở những thú vượt qua được bệnh, phức hợp miễn dịch sẽ
giảm cùng với sự cải thiện về mặt lâm sàng.
1.7 Bệnh do Leptospira trên người
9
Theo WHO (2002), bệnh do Leptospira xảy ra trên người biểu hiện như sau:
a. Sự truyền lây sang người
Bệnh có thể xảy khi người ta thao tác trên thú nhiễm bệnh hay những cơ quan
của nó. Mầm bệnh truyền qua các vết thương. Các nhà chăn nuôi, bác sĩ thú y có thể
nhiễm trực tiếp bởi nước tiểu thú bị bệnh trong trại chăn nuôi hay trong chuồng điều
trị.
Phần lớn bệnh truyền sang người qua nước ao hồ bị nhiễm bẩn, bùn lầy đã
nhiễm Leptospira khi người ta tắm hoặc lội qua, mầm bệnh xâm nhập qua da hay niêm
mạc hầu họng, niêm mạc mắt…. của người vào cơ thể.
b. Triệu chứng
- Bệnh do Leptospira gây hoàng đản xuất huyết
Biểu hiện hoàng đản xuất huyết thường thấy nhất ở người bị bệnh do
Leptospira gây ra. Bệnh phát triển có tính chu kỳ. Thời kỳ ủ bệnh 7-12 ngày. Bệnh
khởi phát đột ngột, đầu tiên người bệnh sốt cao 39-40oC kèm theo biểu hiện ớn lạnh và
suy yếu.
Biểu hiện hoàng đản chia thành 4 pha:
+ Pha tiền hoàng đản: người bệnh thường bị bại huyết kéo dài trong 4-5 ngày.
Nhiệt độ lên cao, đau cơ và xáo trộn vận mạch, đôi khi nổi những vết đỏ sần, hội
chứng màng não như ói mửa, cứng cơ vòng ót, đau đầu.
+ Pha hoàng đản: bệnh nhân bị hoàng đản là do Leptospira tác động lên gan,
thận. Hoàng đản xuất hiện vào ngày thứ 5 và kéo dài trong 2-3 ngày. Hoàng đản quan
sát được trên niêm mạc. Đi tiểu nhiều và có albimine trong nước tiểu. Ure trong máu
tăng hơn 3 g/l, sau đó dần trở nên bình thường. Đôi khi có xuất huyết (chảy máu cam,
xuất huyết đường tiêu hóa…).
+ Pha hình thành miễn dịch: ở pha này các kháng thể bắt đầu xuất hiện trong
máu của bệnh nhân thường vào ngày thứ 10 của bệnh và những biểu hiện triệu chứng
giảm dần.
+ Pha sốt hồi quy: thường đến ngày bị bệnh thứ 15, bệnh nhân bắt đầu sốt trở
lại sau vài ngày không sốt. Nhiệt độ cơ thể tăng đến 39-40oC, kéo dài 5-8 ngày nhưng
hội chứng màng não, hoàng đản và yếu thận có thể giảm. Mức độ nặng nhẹ của hoàng
đản cho phép xác định bệnh nặng hay nhẹ. Hoàng đản trầm trọng thường đi kèm với
viêm gan, viêm thận cấp tính, vô niệu (không có nước tiểu trong bàng quang), xuất
10
huyết, xáo trộn thần kinh và chết trong vài ngày. Hoàng đản nhẹ thường mang tính
chất tạm thời và không rõ ràng.
- Bệnh do Leptospira không gây ra hoàng đản
Người bị bệnh do Leptospira không gây hoàng đản thường biểu hiện các triệu
chứng nhẹ và ít thấy rõ, không có biểu hiện hoàng đản. Tuy nhiên, có thể gặp những
thể bệnh sau:
+ Những thể màng não thuần túy. Ví dụ bệnh nhân bị nhiễm các serovars như
L. Ponoma, L. Tarassovi… từ heo.
+ Những xáo trộn thần kinh (lầm lẫn về cảm giác, ảo giác) thường do nhiễm
serovars như L. Sejroe, L. Hardjo.
+ Những thể cúm do serovars L. Groppotyphosa và L. Hardjo.
+ Những thể sốt, sốt 7 ngày trong bệnh sốt Nhật Bản 7 ngày do L. Hebdomadis
hay sốt đồng ruộng do L. Bataviae.
Những thể bệnh không gây hoàng đản này có thể chữa trị mà không để lại di
chứng (Hoeden, 1964; WHO, 2002).
Những biểu hiện bệnh
11
2. Vaccine phòng bệnh do Leptospira
Có nhiều loại vaccine phòng bệnh Leptospira: vaccine protein tái tổ hợp,
vaccine lipopolysaccharide (LPS), vaccine bất hoạt, vaccine DNA. Trong phần trình
bày này chủ yếu tập trung đi sâu vào vaccine DNA (vì nó là 1 phương pháp mới).
2.1 Vaccine protein tái tổ hợp
Vaccine protein tái tổ hợp là loại vaccine có tiềm năng lớn trong phòng bệnh
do Leptospira. Nó được xây dựng với phương pháp công nghệ sinh học hiện đại.
Những đặc trưng bảo vệ của vaccine omp tái tổ hợp đã được kiểm nghiệm, nó
gồm: protein ngoại màng (ompL1), lipoprotein (lipL41), protein immunoglobin.
Những đoạn DNA bộ gen mã hóa những protein ngoại màng sẽ được cắt bởi enzyme
XhoI và XbaI, sau những DNA này sẽ được để dùng làm khuôn để khuếch đại đoạn
gen mã hóa omp nhờ PCR. Sau khi được khuếch đại những đoạn đó gen đó sẽ được
chèn vào vector (E.coli) để tổng hợp ra omp. Sau đó tách chiết những omp để tạo
vaccine.
2.2 Vaccine LPS
Những kết quả phân tích về LPSs đã mở ra 1 hướng mới phát triển cho
vaccine. Quá trình tổng hợp LPS của Leptospira tương tự như các vi khuẩn Gram âm
(-). Những LPS của Leptospira kích hoạt các đại thực bào thông qua CD14 và Toll-
like receptor 2 (TLR2). Vaccine LPS không đặc hiệu cho từng dòng serovar độc lập, ví
dụ như vaccine từ L bilexa serovar Patoc có thể chống lại L. interrogans serovar
Manilae, hiệu quả bảo vệ của loại vaccine này phụ thuộc vào liều tiêm và thời gian
tiêm bao lâu. Nhưng vaccine cũng được xem như 1 vaccine đặc hiệu cho từng serovar,
ví dụ vaccine từ 1 vài dòng serovar khác nhau không thể tạo đáp ứng miễn dịch đối
với 1 vài dòng serovar khác. Như vậy cần phải nghiên cứu để xác định về tính đặc hiệu
hay không đặc hiệu của vaccine LPS. Nếu vaccine LPS này không đặc hiệu đối với
con người và các động vật khác nhau thì có thể tạo ra 1 loại vaccine có hiệu quả và
đơn giản hơn.
12
2.3 Vaccine bất hoạt
Vaccine bất hoạt là vaccine sử dụng những vi khuẩn đã làm yếu hoặc chết, hay
sử dụng những kháng nguyên thu nhận được từ 1 hoặc nhiều dòng serovar phù hợp
(như Leptospira borgpetersenii serovar hardjo, Leptospira interrogans serovar hardjo
hoặc những dòng L. interrogans serovar khác).
Vaccine này thường được sử dụng cho chủng ngừa gia súc. Trước khi đem đi
sử dụng, vaccine này được kiểm tra nhiều lần. Mỗi lần kiểm tra sẽ được thử nghiệm
trên 10 thú để xác đinh được liều dùng có hiệu quả nhất. Đợt thử nghiệm được tiến
hành trong 14 ngày, 4 tiếng sau khi tiêm vaccine và mỗi ngày thú sẽ được kiểm tra
nhiệt độ. Sau khi đã thử nghiệm hiệu quả của vaccine thì vaccine sẽ được đem ra sử
dụng.
Vaccine này chỉ sử dụng cho thú từ 6 tháng tuổi trở lên. Vaccine được tiêm 2
đợt để thú có thể được kích thích tạo kháng thể tốt chống lại những dòng serovar đã
nói ở trên.
2.4 Vaccine DNA
Vaccine DNA là 1 loại vaccine mới được nghiên cứu gần đây, nó có nhiều ưu
thế hơn so với các vaccine cổ điển như: tạo kháng thể đặc hiệu (vì kháng nguyên được
tạo ra trên cơ thể), dễ kiểm soát, dễ thực hiện.
Phương pháp tạo vaccine DNA:
1. Chuẩn bị dịch chất thuần nhất của tế bào Leptospira
Dung dịch chứa tế bào Leptospira được thu từ phase log của nuôi cấy vi
khuẩn. Môi trường nuôi cấy được ly tâm ở 12000 v/p ở 25oC trong 30 phút. Thu lấy
kết tủa, rửa bằng muối buffer phosphate, pH = 7,4 ; 3 lần bằng ly tâm. Cuối cùng cho
phần thu được trở về trạng thái lỏng bằng nước chưng cất siêu tinh khiết (UDW).
Dung dịch được mang đem đi đánh sóng âm 20 kHz trong nước đá khoảng 5 phút. Thu
nhận được lượng protein thuần nhất. Lượng protein này được sử dụng để xác định
chuẩn kháng thể huyết thanh của chuột đã được miễn dịch thông qua phương pháp
ELISA gián tiếp.
2. Chuẩn bị DNA bộ gen của Leptospira
DNA bộ gen được trích từ toàn bộ những tế bào của L.interrogans, serogroup
Icterohaemorrhagiae, serovar Copenhageni đã được thu nhận ở phase log của quá
trình nuôi cấy. Tế bào vi khuẩn được rửa sạch như các bước ở trên và phần tế bào thu
được từ ly tâm lần cuối (ly tâm 3 lần như ở trên) sẽ chuyển vào buffer TE (10 mM
Tris-HCl, pH = 8 và 1 mM EDTA). Phần chuẩn bị đó được cho thêm vào buffer lysis
13
chứa 10% SDS, 3 ul của 20 ul/ml proteinase-K, 5 ul của 20 mg/ml RNase A và được ủ
ở 30oC trong 1 tiếng. Sau đó thêm vào 5 M sodium chloride và
cetyltrimethylammonium bromide (CTAP) ngay lập tức. Cho 1 thể tích đúng bằng thể
tích trên của phenol-chloroform-isoamyl để tạo hỗn hợp. Phần chuẩn bị được ly tâm ở
12000 v/p , 25oC trong 5 phút. Phần dung dịch bên trên được chuyển sang 1 ống mới,
isopropanol được thêm vào để kết tủa DNA. Rửa phần kết tủa thu được sau khi ly tâm
bằng ethanol 70% và sấy khô. DNA đã sấy khô sẽ hòa tan vào buffer TE. Chất lượng
của phần chuẩn bị được đánh giá thông qua khuếch đại PCR đoạn gen 16S RNA (sử
dụng 2 primer oligonucleotide, primer forward: 5’-GGCGGCGCGTCTAAACATG-3’
và primer reverse: 5’-TTCCCCCCATTGAGCAAG-3’ được tạo ra từ chuỗi 16S
rDNA của L.interrogans, serovar Canicola dòng Moulton. PCR amplicon được thu
nhận để điện di trên gel agarose 1%, nhuộm ethidium bromide và được nhận diện dưới
tia UV (Biodoc-ITTM Imaging System, UVP Transilluminator, Cambridge, UK).
DNA chất lượng tốt được thu nhận và phần chuẩn bị sau đó được sử dụng làm khuôn
để khuếch đại ompLI.
3. Thiết kế primer và khuếch đại ompLI bằng PCR
Những đoạn primer oligonucleotide dùng để khuếch đại ompLI bằng PCR
được thiết kế từ chuỗi DNA (ID LIC 10973) mã hóa ompLI của L.interrogans,
serogroup Icterohaemorrhagiae, serovar Copenhageni của dữ liệu GenBank. Chuỗi
primer forward là 5’-GGCTCGAGCCATGGCATTATCTTCGGCTGCA-3’ với chuỗi
Kozak và vị trí giới hạn XhoI ở đầu 5’ ; chuỗi primer reverse là 5’-
GCTCTAGACTGTAGATTTGCCCACCGA-3’ với vị trí giới hạn XbaI ở đầu 3’ .
PCR gradient được sử dụng để xác định nhiệt độ tối ưu của primer. Hỗn hợp PCR
gồm: 16,25 ul của UDW, 2,5 ul của buffer (10x), 2 ul của 200 nM dNTPs mix, 1 ul
mỗi loại primer, 2 ul của DNA khuôn, 0,25 ul của Taq polymerase (2 U/ul). Gradient
nhiệt độ là 52-61oC. Mỗi PCR amplicon được thu nhận để điện di trên gel agarose và
nhuộm ethidium bromide để xác định nhiệt độ tối ưu của primer, tại nhiệt độ mà tạo ra
số lượng DNA