Cách đây khoảng 20 năm (trước cải cách kinh tế) người ta còn khá mơ hồ về
kinh tế thị trường (KTTT) và khái niệm này dường như không được nói đến nhiều và bị
tẩy chay trong xã hội. Những năm gần, từ sau cải cách kinh tế 1986, đây nhờ chính sách
của Đảng và nhà nước nhằm truyền bá sâu rộng đường lối phát triển KTTT định hướng
XHCN, nên nó không còn là vấn đề quá cao sang và ngày nay việc sinh viên nghiên cứu
về vấn đề này đã trở thành phổ biến và cần thiết để tạo nền tảng về tư tưởng chính trị
cho thế hệ sau này.
KTTT là sản phẩm, thành tựu chung của nền văn minh nhân loại chứ không của
một chế độ xã hội nào. Ngay từ khi ra đời nó đã thể hiện ưu điểm của mình, nhưng cái
gì cũng có mặt tốt và sấu của nó, KTTT cũng có những khuyết tật. Trước kia các nước
đi theo con đường CNXH cho rằng KTTT là nền kinh tế của CNTB. Từ đại hội Đảng
VI Đảng ta đã khẳng định :”Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó chính là nền KTTT định hướng
XHCN” nhằm tận dụng ưu thế của cơ chế kinh tế này và khắc phục nhưng nhược điểm
của nó, sử dụng nó như một công cụ kinh tế để tiến lên CNXH. Phương hướng này tiếp
tục được triển khai đến các đại hội sau này.
Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay là vô cùng quan trọng. Làm thế nào để hiểu và giúp đỡ nhà nước trong quản lý kinh
tế không phải là vấn đề của riêng các cơ quan hay các cấp chính quyền nào.Bài viết này
không có tham vọng trìng bầy toàn bộ những vấn đề liên quan và hoàn toàn đầy đủ về
vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT, nhưng em hy vọng rằng nó nói nên hiểu
biết của mình về vai trò kinh tế của nhà nước và từ đó có những bài học cho bản thân.
Rất mong có sự góp ý của thầy để hoàn thiện bài viết cũng như tăng tầm hiểu biết về
vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
31 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1949 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vai trò kinh tế của nhà nước
trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay
Đặt vấn đề
Cách đây khoảng 20 năm (trước cải cách kinh tế) người ta còn khá mơ hồ về
kinh tế thị trường (KTTT) và khái niệm này dường như không được nói đến nhiều và bị
tẩy chay trong xã hội. Những năm gần, từ sau cải cách kinh tế 1986, đây nhờ chính sách
của Đảng và nhà nước nhằm truyền bá sâu rộng đường lối phát triển KTTT định hướng
XHCN, nên nó không còn là vấn đề quá cao sang và ngày nay việc sinh viên nghiên cứu
về vấn đề này đã trở thành phổ biến và cần thiết để tạo nền tảng về tư tưởng chính trị
cho thế hệ sau này.
KTTT là sản phẩm, thành tựu chung của nền văn minh nhân loại chứ không của
một chế độ xã hội nào. Ngay từ khi ra đời nó đã thể hiện ưu điểm của mình, nhưng cái
gì cũng có mặt tốt và sấu của nó, KTTT cũng có những khuyết tật. Trước kia các nước
đi theo con đường CNXH cho rằng KTTT là nền kinh tế của CNTB. Từ đại hội Đảng
VI Đảng ta đã khẳng định :”Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó chính là nền KTTT định hướng
XHCN” nhằm tận dụng ưu thế của cơ chế kinh tế này và khắc phục nhưng nhược điểm
của nó, sử dụng nó như một công cụ kinh tế để tiến lên CNXH. Phương hướng này tiếp
tục được triển khai đến các đại hội sau này.
Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay là vô cùng quan trọng. Làm thế nào để hiểu và giúp đỡ nhà nước trong quản lý kinh
tế không phải là vấn đề của riêng các cơ quan hay các cấp chính quyền nào.Bài viết này
không có tham vọng trìng bầy toàn bộ những vấn đề liên quan và hoàn toàn đầy đủ về
vai trò kinh tế của nhà nước trong nền KTTT, nhưng em hy vọng rằng nó nói nên hiểu
biết của mình về vai trò kinh tế của nhà nước và từ đó có những bài học cho bản thân.
Rất mong có sự góp ý của thầy để hoàn thiện bài viết cũng như tăng tầm hiểu biết về
vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
Phần 4 : Giải pháp nâng cao vai trò kinh tế của nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
1) Thực trạng vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ở nước ta 20
2) Giải pháp đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước..........22
Kết luận..............................................................................................24
Tài liệu tham khảo...............................................................................25
Nội dung cơ bản.
Phần 1: Tính tất yếu khách quan,vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền
kinh tế.
1) Tính tất yếu chuyển sang KTTT.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh
sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế _ xã hội. Cơ chế này chỉ hợp
với nền kinh tế còn thấp kém sau chiến tranh, càng ngày nó càng thể hiện sự không phù
hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước. Như chúng ta đã biết tính tự cung tự cấp của
nền kinh tế ở nước ta nếu không có một cơ chế thay đổi thì không thể có dư thừa sản
phẩm để trao đổi và phát triển. Mặt khác nền kinh tế kế hoạch hoá mà chúng ta đang áp
dụng thực tế đưa nước ta vào tình trạng nghiêm trọng, cung không đủ cầu thậm chí
chúng ta phải nhập khẩu lương thực (thứ hàng hoá thế mạnh của một nước nông nghiệp)
từ nước ngoài.Lúc này nền kinh tế của các nước XHCN vận hành theo cơ chế cũ liên
tiếp tan vỡ. Các nước này phải chuyển sang cơ chế thị trường. Trên thực tế các nhân tố
thị trường đã có ở nước ta tuy nhiên còn nhiều ý kiến khác nhau về sự tồn tại của nó.
KTTT hình thành do phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Đối chiếu hai điều kiện đó ở nước ta
hiện nay ta thấy :
Thứ nhất : Sự phân công lao động xã hội không những không mất đi mà còn tồn
tại và phát triển ở nước ta cả về chiều rộng và chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều
ngành nghề mới ra đời và phát triển, thêm vào đó trong nội bộ từng ngành và địa
phương phân công lao động ngày càng rõ rệt và chi tiết hơn.Cuối thập kỷ 70 đầu thập
kỷ 80 một loạt các hình thức phân công lao động ra đời như xí nghiệp đánh cá Vũng
Tàu Côn Đảo thực hiện khoán cho từng con tàu đánh cá. Trong nông nghiệp nhiều địa
phương thực hiện khoán đến từng hộ gia đình. Năm 1981 theo chỉ thị 100 của ban bí thư
thực hiện khoán sản phẩm cho hộ gia đình được khuyến khích mở rộng phổ biến. Việc
mua bán nông sản và vật tư nông nghiệp được nới lỏng theo xu hướng tự do trên thị
trường là cơ sở cho trao đổi vẫn còn tồn tại và tạo diều kiện tự do cạnh tranh, tự do
kinh doanh. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia
và trỏ thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Thứ hai : Toàn bộ nền kinh tế quốc dân xét về mặt cơ cấu vẫn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế khác nhau trong đó có thành phần kinh tế tư hữu dẫn đến còn nhiều chủ sở
hữu khác nhau và giữa họ có tính độc lập tương đối về kinh tế.Hơn nữa trình độ xã hội
hoá giữa các ngành và các đơn vị sản xuất trong cùng một thành phần kinh tế không đều
nhau. Do vậy việc hoạch toán kinh doanh và phân phối, trao đổi sản phẩm lao động tất
yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ. Khi nghị quyết 10 của bộ chính trị ra đời
thì kinh tế hộ gia đình được coi là đơn vị kinh tế tự chủ bên cạnh thành phần kinh tế
quốc doanh và hợp tác xã.Bên cạnh đó hàng loạt các biến đổi về kinh tế xã hội to lớn
trong nông thôn làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo chiều hướng mới. Trong
đó các chủ sở hữu muốn sử dụng sản phẩm của nhau không thể tiến hành trực tiếp mà
gián tiếp thông qua trao đổi dưới hình thái hàng hoá. Vì thế kinh tế hàng hoá hay KTTT
tồn tại ở nước ta là một tất yếu khách quan.
8 Năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự đổi mới nền kinh tế của
nước ta. Từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “ Tiếp tục xoá bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước”. Ta thấy chủ chương chuyển sang KTTT là hợp với
quy luật khách quan và xu thế của thời đại.
2) Ưu thế và khuyết tật của KTTT.
*KTTT : Là cách tổ chức nền kinh tế xã hội của các cá nhân, các doanh nghiệp đều
biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành
viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt
của giá cả thị trưòng.( Tìm hiểu về KTTT_nhà xuất bản chính trị Quốc gia ).KTTT là
kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình
tái sản xuất đều được tiền tệ hoá.(Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế _ xã hội
mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi
trên thị trường. Giáo trình Kinh tế chính trị )
*Ưu thế.
Kinh tế hàng hoá có những ưu thế như :
_ Thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công lao
động, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu ssắc, hình thành các mối quan hệ kinh tế
và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doang nghiệp và người sản xuất. tạo tiền đề cho hợp
tác lao động ngày càng chặt chẽ.
_ Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
_ Thúc đẩy quá trình tích tụ tập chung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh tế trong
nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
_ Giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự ràng buộc của nền sản xuất khép
kín đã từng chói buộc và kìm hãm sự phát triển.
Kinh tế hàng hoá đã góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội và nâng cao
mức sống của nhân dân. Nó đảm bảo cho nền kinh tế có năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao, dịch vụ được mở rộng, khoa học kỹ thuật được cải tiến.
*Khuyết tật.
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường có những khuyết tật của nó như : Chỉ chú ý đến
các nhu cầu cơ bản có khả năng thanh toán, không chú ý các nhu cầu cơ bản khác của
xa hội do đó phúc lợi xã hội không phát triển. Đặt lợi nhuận lên hàng đầu và làm đủ mọi
cách để đạt được lợi nhuận nên làm tha hoá đạo đức kinh doanh. Tạo ra tình trạng thất
nghiệp, phân hoá giầu nghèo...Kinh tế thị trường cùng với sự mở của của nó còn tạo đà
du nhập những luồng gió độc vào nền kinh tế _ xã hôị trong nước. Sự phát triển của sản
xuất còn kéo theo sự khan hiếm tài nguyên do khai thác không khoa học, sự ô nhiễm
nguồn nước, không khí và môi trường. Do tính tự phát vốn có của KTTT nên khó kiểm
soát khủng hoảng kinh tế, hoạt động đầu cơ trên thị trường. Ngoài ra khủng hoảng theo
chu kỳ cũng là một khuyết tật vốn có của nó.
3) Tính tất yếu khách quan có sự quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh
tế.
Ngày nay bất cứ nền kinh tế của quốc gia nào cũng đều chịu sự quản lý, chi phối,
điều tiết của nhà nước. Không có nhà nước nào đứng ngoài hoạt động kinh tế của đất
nước dù rằng mức độ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế khác nhau là khác nhau. Tính tất
yếu khách quan có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thể hiện :
3.1 Quản lý vĩ mô nền kinh tế là đòi hỏi khách quan của sự phát triển LLSX và
phân công lao động xã hội.
LLSX phát triển đến quy mô ngày càng rộng lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng
cao đòi hỏi một sự điều khiển, định hướng của một chủ thể kinh tế năng động, kịp thời
với sự thay đổi đó, đó là nhà nước. Mặt khác quá trình phát triển sản xuất luôn gắn với
chuyên môn hoá, tập trung hoá sản xuất dẫn đến phải tăng cường vai trò quản lý vĩ mô
nền kinh tế của nhà nước để dưa guồng máy sản xuất đi đúng quỹ đạo của mình.
Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta mặc dù LLSX và
phân công lao động xã hội phát triển chưa cao nhưng nhu cầu và điều kiện kinh tế _ xã
hội (theo định hướng XHCN) trong điều kiện trong nước và quốc tế khó khăn, phức tạp
đòi hỏi thường xuyên đổi mới và hoàn thiện không ngừng vai trò quản lý vĩ mô của nhà
nước. Mục tiêu đặt ra là chuyển nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển sang nền xản suất
lớn. Mặt khác hiệu quả của quản lý vĩ mô là thúc đẩy LLSX và phân công lao động phát
triển. Do đó đổi mới và hoàn thiện quản lý vĩ mô của nhà nước là đòi hỏi khách quan để
phát triển kinh tế và dây dựng XHCN.
3.2 Quản lý vĩ mô nền kinh tế để đảm bảo phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, khắc phục có hiệu quả những hạn chế, khuyết tật
của KTTT.
Kinh tế hàng hoá tất yếu được vận hành theo cơ chế thị trường với những quy luật
kinh tế khách quan vốn có của nó. Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi chủ thể sản xuất
kinh doanh đều phải hướng vào thị trường, chịu sự điều khiển, chi phối của thị trường
và giá cả thị trường. Quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng là mối quan hệ
hữu cơ, tác động qua lại phong phú đa dạng và phức tạp. Bên cạnh những mặt tích cực,
cơ chế thị trường cũng có những hạn chế khuyết tật mà tự nó không thể khắc phục như
đã nói ở phần trên. KTTT với tính tự phát của nó không thể đáp ứng được các mục tiêu
xã hội. Vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô nền kinh tế để triển khai những mặt tích cực
và hạn chế các khuyết tật của nó. Sự can thiệp của nhà nước ở các cấp độ khác nhau và
các công cụ, biện pháp khác nhau nhằm hướng hoạt động sản xuất kinh doanh đi theo sự
định hướng của nhà nước, ở đây là định hướng XHCN.Nhờ có sự tác động đó, nhà nước
có thể hướng các doanh nghiệp vì lợi ích của mình mà đi theo định hướng của nhà nước.
Vì vậy sự can thiệp của nhà nước vào quản lý vĩ mô nền kinh tế là tất yếu.
Thống nhất hiệu quả kinh tế _ xã hội trong sự phát triển của đất nước là một nhiệm
vụ chủ yếu, nặng nề và hết sức khó khăn của quản lý nhà nước. Chíng vì vậy, muốn đạt
hiệu quả kinh tế xã hội đáp ứng sự phát triển của đất nước, nhất thiết phải không ngừng
đổi mới, hoàn thiện quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước.
3.3 Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, sự điều tiết quản lý vĩ mô là nhân tố đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả và theo định hướng XHCN.
Trong cơ chế quản lý hai nhân tố khách quan trực tiếp bảo đảm tính định hướng
XHCN của nền kinh tế là : Vai trò chủ đạo của khu vực quốc doanh và vai trò quản lý vĩ
mô của nhà nước. Tính định hướng XHCN xét dưới góc độ kinh tế chính là : phát huy
mọi nguồn lực, tiềm năng, đẩy nhanh sự phát triển của LLSX, khoa học kỹ thuật và
công nghệ trên cơ sở đó xây dựng củng cố và hoàn thiện QHSX XHCN nhằm mục đích
cuối cùng là đem lại hạnh phúc, ấm no, tự do và dân chủ thực sự cho mọi thành viên
trong xã hội. Để làm được điều đó, không thể thiếu vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô về
kinh tế của nhà nước.
Tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước lại càng đặc biệt quan trọng
trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới ngày nay và cuộc đấu tranh giai cấp và
dân tộc gay go, quyết liệt, phức tạp đang diễn ra ở nước ta trên mọi mặt của đời sống xã
hội, kể cả trên lĩnh vực sản xuất và lưu thông.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ của rnhững tìm tòi thử nghiệm. Những sai sót,
yếu kém bên cạnh những thắng lợi, thành công là điều không thể tránh khỏi.Do vậy cần
tăng cường và đổi mới vai trò quản lý vĩ mô, kịp thời khắc phục những sai lầm, thiếu
sót, điều chỉnh bổ sung phát triển những chủ trương chính sách, biện pháp cần thiết để
những tìm tòi, thử nghiệm ấy đem lại hiệu quả cao và thành công vững chắc bảo đảm
xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đúng cương lĩnh, chiến lược của Đảng.
Những thành công đó lại tạo kinh nghiệm, cơ sở để củng cố, hoàn thiện và nâng cao vai
trò quản lý vĩ mô của nhà nước.
4) Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò kinh tế đó là : tổ chức và quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh
tế vĩ mô lẫn kinh tế vi mô, trong đó quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước là chủ yếu.
Sở dĩ nhà nước có vai trò kinh tế nói trên vì :
_ Nhà nước với tư cách là người đại diện cho toàn xã hội, có nhiệm vụ quản lý đất
nước về hành chính và kinh tế.
_ Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất
( TLSX ), có nhiệm vụ quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước.
_ Trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường bên cạnh mặt tích
cực chủ yếu của nó, không chánh khỏi những khuyết tật vốn có do đó vai trò quản lý
kinh tế của nhà nước góp phần giải quyết, khắc phục những khuyết tật đó và phát huy
những ưu thế của KTTT là tất yếu.
Vai trò của nhà nước trong nền KTTT được thể hiện qua các chức năng kinh tế
của nó như :
*Đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra
những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức năng này vượt ra
ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động kinh
tế bằng cách đặt ra những quy định chi tiết cho sự hoạt động của thị trường, đặt ra
những quy định chi tiết cho sự hoạt động của doanh nghiệp trong khuôn khổ pháp luật
mà nhà nước cần thiết lập có tác dụng sâu sắc đến hành vi kinh tế của con người và cả
bản thân chính phủ phải noi theo.
ở Việt Nam Nhà nước ta luôn chú trọng tạo ra điều kiện chính trị thuận lợi cho hoạt
động kinh tế. Vai trò này được thể hiện qua các chính sách về sở hữu và sử dụng đất đai
được áp dụng mềm dẻo rồi nhà nước dần từ bỏ việc quản lý hành chính sang quản lý
dựa trên pháp luật như : Năm 1988 đưa ra luật đầu tư nước ngoài. Năm 1989 cải các
thuế. Năm 1991 Luật doanh nghiệp thương mại. Năm 1992 Luật đất đai. Năm 1993 thuế
VAT... Nhưng thực trạng còn tồn tại ở Việt Nam là hành lang pháp luật này còn quá
nhiều khe hở, không thực sự an toàn và phát huy hết tác dụng cũng như vai trò của nhà
nước.
*Điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, Nhà nước cố gắng
làm dịu những giao động lên xuống của chu kỳ kinh doanh bằng chính sách tài chính _
tiền tệ làm ổn định nền kinh tế.
ở Việt Nam hệ thống giá cả đã được tự do hoá và do cơ chế cung _ cầu quyết
định.Những sự đổi mới trong chính sách tài chính tiền tệ với những công cụ như lãi
suất, tỷ giá hối đoái, thuế...đã cải thiện đáng kể ngân sách nhà nước (NSNN), những cơn
sốt lạm phạt giảm dần. Từ năm 1987 ta bắt đầu thả nổi một phần giá cả, đến năm 1988
phần lớn giá cả được thả nổi và đến năm 1989 chương trình cải cách được thực hiện
bằng cách phối hợp chính sách tự do hoá thương mại, phá giá đồng tiền, nâng lãi suất
và thay đôi tỷ giá hối đoái làm tỷ lệ lạm phát giảm xuống 2 con số.
Tuy nhiên những chính sách này còn cứng nhắc (như thay đổi trong tỷ lệ lãi
suất,trong 12 năm từ 1976 đến 1988 mà lãi suất chỉ thay đổi có 5 lần ) đôi khi còn chậm
thay đổi trước những tác động của thị trường. Nhà nước không kiểm soát hết tình hình
tiền tệ trôi nổi trên thị trường. Còn nhiều khái niệm của KTTT chưa được áp dụng do
khong có đủ cơ sở hạ tầng về pháp luật...
* Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả trong hoạt động thị
trường là những tác động mà các nhà kinh tế học gọi là tác động bên ngoài. Các doanh
nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài nguyên, xã hôi, gây ô nhiễm môi
trường mà xã hội phải gánh chịu. Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp đó phải trả
tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Sự can thiệp đó nhằm ngăn chặn
những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội.
Một nguyên nhân khác nữa dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường là
sự xuất hiện độc quyền. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt
hiệu quả cao nhưng cạnh tranh hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh
nghiệp có xu hướng giảm cạnh tranh. Do đó nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh
chống lại độc quyền, nâng cao hiệu quả của thị trường.
ở Việt Nam nhà nước ta đã nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
trường như các hình thức bao cấp thông qua trợ giá, lãi xuất tín dụng ưu đãi, bao cấp
tiền lương...dần dần bị xoá bỏ,đưa các xí nghiệp quốc doanh sang chế độ tự hoạch toán
và nâng cao dần sức cạnh tranh trên thị trường. Các công ty độc quyền trước đây như
bưu điện, xăng dầu, máy móc..., do sự sâm nhập của một số công ty nước ngoài hay
trong nước mà cũng nâng cao dần sức cạnh tranh trên thị trường.Tuy nhiên nước ta còn
chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài và độc quyền trong các ngành then chốt vẫn
còn tồn tại. Nhà nước tuy đã có những chính sách hạn chế độc quyền và ảnh hưởng bên
ngoài nhưng chưa phát huy hết tác dụng.
* Đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì nhà nước phải xản suất ra hàng hoá
công cộng đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã
hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trường có thể làm cho nền kinh tế đạt hiệu qủa cao,
nhưng cơ chế thị trường phi nhân tính, nó không tính đến các khía cạnh nhân đạo vào xã
hội, không mang lại những kết quả mà xã hội cố gắng vươn tới. Việc phân phối sản xuất
và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại sự phân phối thu nhập tối ưu.
Sự can thiệp của nhà nước nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các thành
viên của xã hội chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm
dân cư thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Nước ta đã áp dụng chế độ phân phối theo lao động kết hợp với phúc lợi xã hội và
chính sách này cũng đã có tác dụng thiết lập sự công bằng trong phân phối mà không
làm giảm các công trình phúc lợi xã hội.
Phần 2: Đặc trưng cơ bản của KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
Nét tổng quát về KTTT định hướng XHCN mà nước ta đang xây dựng là: Thể chế
kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết
định đối với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ
mô của nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết, hợp tác
có trình độ xã hội hoá cao, thúc