Xét về hình thức, tài chính công là các hoạt động thu, chi tiền tệ của nhà nước gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tài chính công nhằm đáp ứng các nhu cầu thực hiện chức năng của nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa công cho xã hội.
Về thực chất, tài chính công phản ánh các quan hệ kinh tế trong phân phối nguồn tài chính quốc gia phát sinh giữa các cơ quan công quyền của nhà nước với các chủ thể khác trong nền kinh tế nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận.
36 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8619 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vai trò tài chính công của Việt Nam từ năm 2008 đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP NHÓM TÀI CHÍNH HỌC
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ TÀI CHÍNH CÔNG CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2010
DANH SÁCH NHÓM
Nguyễn Hồng Nhung
Nguyễn Thị Linh
Bùi Ánh Tuyết
Phùng Thị Thủy
Nguyễn Thị Thu Trang
Phan Thị Trang
Nguyễn Thị Thoa
Lương Ngọc Tuấn
Nguyễn Bảo Trung
MỤC LỤC
I.Khái quát về vai trò của tài chính công 3
1. Tài chính công là gì? 3
2. Đặc điểm của tài chính công. 3
3. Vai trò của tài chính công. 4
3.1. Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước. 4
3.2. Điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội 6
a) Kinh tế. 6
b) Xã hội. 7
II.Vai trò của tài chính công ở Việt Nam từ năm 2008 – 2010 9
1. Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước 9
2. Điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội. 12
a) Kinh tế 12
b) Xã hội. 18
III. Hạn chế của tài chính công ở Việt Nam. 30
IV. Kết luận 34
Khái quát về vai trò của tài chính công.
Tài chính công là gì?
Xét về hình thức, tài chính công là các hoạt động thu, chi tiền tệ của nhà nước gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tài chính công nhằm đáp ứng các nhu cầu thực hiện chức năng của nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa công cho xã hội.
Về thực chất, tài chính công phản ánh các quan hệ kinh tế trong phân phối nguồn tài chính quốc gia phát sinh giữa các cơ quan công quyền của nhà nước với các chủ thể khác trong nền kinh tế nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội không vì mục tiêu lợi nhuận.
Đặc điểm của tài chính công.
+ Gắn liền với sở hữu nhà nước, quyền lực chính trị của nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định đến quá trình tạo lập và sử dụng quỹ công đặc biệt là quỹ ngân sách nhà nước. Các quyết định của nhà nước được thể chế bằng luật do cơ quan quyền lực cao nhất (Quốc hội phê chuẩn). Việc tạo lập và sử dụng quỹ công phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước và các mục tiêu kinh tế - xã hội quốc gia đặt ra trong từng thời kì.
+ Chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Về thực chất, tài chính công phản ánh quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể khác trong nền kinh tế trong việc phân phối nguồn tài chính quốc gia nên hoạt động tài chính công phản ánh các quan hệ lợi ích giũa nhà nước với các chủ thể khác trong nền kinh tế, trong đó lợi ích tổng thể (lợi ích quốc gia) được đặt lên hàng đầu và chi phối đến các quan hệ lợi ích khác.
+ Hiệu quả của hoạt động thu, chi tài chính công không lượng hóa được. Hoạt động thu, chi tài chính công chủ yếu mang tính chất không hoàn lại trực tiếp nên không thể đánh giá hiệu quả một cách cụ thể, chính xác. Tuy nhiên hiệu quả của tài chính công có thể xác định một cách tương đối thông qua các chỉ tiêu kinh tế - xã hội như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, hộ nghèo, tỉ lệ thất học…
+ Phạm vi hoạt động rộng: Tài chính công gắn liền với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao…Hoạt động thu, chi tài chính công có tác động đến thu nhập của hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế kể cả chủ thể đầu tư hay tiêu dùng. Tuy nhiên, phạm vu và mức độ tác động tùy thuộc vào chính sách tài chính công, bối cảnh kinh tế - xã hội quốc gia trong từng thời kì và tùy thuộc vào từng chủ thể.
Vai trò của tài chính công.
Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Tài chính công là công cụ đắc lực trong tay nhà nước để có thể huy động các nguồn lực của quốc gia, và từ những nguồn lực huy động được sử dụng cho các hoạt động của bộ máy nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Có thể nói rằng đây là vai trò lịch sử của tài chính công xuất phát từ nội tại của phạm trù tài chính. Một nhà nước ra đời, để có thể tồn tại duy trì hoạt động và thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình phải có nguồn lực tài chính để chi tiêu, thực thi các kế hoạch hành động. Đặc biệt trong thời đại kinh tế xã hội phát triển, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng thì hoạt động của nhà nước càng thêm phong phú, đa dạng, nhu cầu chi tiêu của chính phủ do đó mà không ngừng tăng lên cả về quy mô và phạm vi. Nguồn để phục vụ cho các hoạt động chi tiêu đó ở đâu? Chính là từ thu nhập công. Nhà nước tập trung các nguồn lực tài chính vào ngân sách nhà nước là chủ yếu, ngoài ra còn tập trung vào các quỹ tài chính khác của nhà nước. Sau đó thực hiện chức năng phân phối và sử dụng nhằm duy trì một cách hiệu quả hoạt động của mình và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội. Tài chính công là công cụ tài chính mà nhà nước sử dụng để thực hiện huy động, tập trung các nguồn lực tài chính quốc gia (thu nhập công) nhằm duy trì hoạt động của mình trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Vai trò này được thể hiện cụ thể qua các ý đó tài chính công huy động nguồn lực tài chính cho hoạt động của nhà nước, nhà nước sử dụng nguồn lực đó trong hoạt động như thế nào?, việc huy động và phân phối nguồn tài chính đó hợp lý hay chưa?
Tài chính công là công cụ đắc lực để khai thác, động viên và tập trung các nguồn lực tài chính, đáp ứng đầy đủ kịp thời cho nhu cầu chi tiêu mà nhà nước đã dự tính và phát sinh. Bất cứ nhà nước nào cũng sử dụng tài chính công trong mọi mô hình tài chính công để phục vụ cho công việc quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội. Tài chính công được sử dụng để huy động một phần nguồn tài chính của quốc gia thông qua đóng góp bắt buộc hoặc tự nguyện của các chủ thể trong nền kinh tế tạo lập quỹ tài chính công. Các nguồn lực tài chính này được nhà nước huy động từ trong nội bộ nền kinh tế quốc dân và từ nước ngoài, từ mọi hoạt động và mọi thành phần kinh tế, dưới nhiều hình thức huy động khác nhau (thuế, phí, lệ phí bắt buộc, công trái..) trong đó thuế là công cụ chủ yếu nhất. Những khoản huy động này có thể mang tính bắt buộc hoặc tự nguyện hoàn trả hoặc không hoàn trả, tuy nhiên tính không hoàn trả và bắt buộc là chủ yếu.
Tài chính công phân phối các nguồn lực tài chính đã được huy động và tập trung hình thành quỹ công cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước theo những quan hệ tỷ lệ hợp lý. Phân phối sản phẩm quốc dân theo hướng tích lũy để ổn định và phát triển kinh tế đồng thời cung cấp các nguồn vốn để thỏa mãn các yêu cầu về hàng hóa và dịch vụ công cộng mà tài chính của khu vực tư nhân không thể thực hiện được đỗ một số đặc điểm đặc biệt của hàng hóa công. Ngoài ra phân phối của tài chính công còn đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và đảm bảo an ninh quốc phòng. Như vậy các quỹ tài chính công vừa đảm bảo duy trì, tăng cường sức mạnh của bộ máy nhà nước, vừa đảm bảo thúc đầy phát triển kinh tế, thực hiện chức năng xã hội của nhà nước đối với các lĩnh vực, các đối tượng trong nển kinh tế.
Tài chính công là công cụ để kiểm tra giám sát để bảo đảm cho các nguồn tài chính đã được huy động một cách hợp lý hay chưa, việc phân phối và sử dụng đã tiết kiệm và đạt hiệu quả cao nhất không? Từ đó nhà nước sẽ có những biện pháp điều chỉnh, quỹ tài chính của nhà nước luôn được huy động nhanh nhất, chính xác hợp lý nhất, đảm bảo nguồn lực cho việc duy trì tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội
Kinh tế.
Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đầy chuyển dịch cơ cấu kinh tế , đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững. Với chức năng phân bổ nguồn lực tài chính thông qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ công, tài chính công tác động đến việc phân bổ và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trong toàn bộ nền kinh tế. Công cụ thuế với các mức thuế suất và ưu đãi khác nhau đối với từng loại sản phẩm ngành nghề vùng lãnh thổ… Tài chính công có vai trò định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, kích thích hoặc hạn chế phát triển sản xuất kinh doanh theo từng loại sản phẩm. Với việc phân bổ nguồn tài chính cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư vào các ngành nghề then chốt các công trình mũi nhọn hỗ trợ tài chính cho các thành phần kinh tế trong các trường hợp cần thiết như trợ giá trợ cấp… tài chính công góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất cơ cấu kinh tế nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Cùng với việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng tài chính công còn có vai trò quan trọng trong việc bình ổn kinh tế vĩ mô như: đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, duy trì việc sử dụng lao động ở tỷ lệ cao, hạn chế sự tăng giá đột ngột đồng loạt và kéo dài… Vai trò này được thực hiện thông qua các biện pháp như tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ quốc gia, quỹ hỗ trợ việc làm điều chỉnh thuế điều chỉnh chi tiêu chính phủ, phát hành trái phiếu…
Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô:
Sự ổn định của một nền kinh tế được đánh giá từ nhiều chỉ tiêu như: Đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lý và bền vững, duy trì lao động ở tỷ lệ cao, thực hiện cân đối cán cân thanh toán quốc tế, bình ổn thị trường và kiểm soát lạm phát. Để có thể đảm bảo được các yếu tố trên nhà nước cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp trong đó biện pháp về tài chính là thực hiện các công cụ là tài chính công cụ thể: tạo lập các quỹ tài chính ngoài ngân sách nhà nước và sử dụng nó một các linh hoạt nhằm ứng phó với những biến động của nền kinh tế, Quỹ dự trữ nhà nước, quỹ bình ổn giá là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả. Quỹ dự trữ xuất nhập khẩu, quỹ dự trữ ngoại tệ là công cụ nhằm góp phần duy trì sự cân đối của cán cân thanh toán quốc tế, bình ổn tỷ giá hối đoái.
Song song với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tài chính công, các biện pháp tài chính khác như: Cắt giảm chi tiêu ngân sách, điều tiết tiêu dùng và đầu tư qua thuế, sử dụng công cụ tín dụng nhà nước và lãi suất… được sử dụng một cách đồng bộ để kiểm soát một cách chặt chẽ lạm phát, ổn định nề kinh tế vĩ mô.
Xã hội.
Tài chính công đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội. Vai trò này được thể hiện thông qua việc sử dụng các công cụ thu, chi của tài chính công để điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân, giảm bớt những bất hợp lý trong phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng và giải quyết các vấn đề xã hội, đáp ứng được những vấn đề xã hội của nền kinh tế vĩ mô.
Một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế xã hội đó là mức sống của dân cư, mặt bằng về văn hoá, phúc lợi xã hội. Nhu cầu về các hàng hoá dịch vụ công với chất lượng cao như: giáo dục, y tế, văn hoá và các dịch vụ xã hội khác ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của kinh tế, văn minh của xã hội đòi hỏi nhà nước phải tăng cường đầu tư công. Hằng năm, phân bổ nguồn lực tài chính công để thực hiện các biện pháp trong sự nghiệp giáo dục đào tạo (phổ cập giáo dục), sự nghiệp y tế (chương trình y tế cộng đồng), sự nghiệp văn hoá, xã hội được thực hiện thông qua các khoản chi tiêu công. Ngoài ra nhà nước còn có những khoản chi tiêu công liên quan đến phúc lợi, an sinh xã hội… nhằm nâng cao mức sống của nhân dân.
Kinh tế phát triển tăng trưởng kéo theo sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng miền, vùng dân cư càng gia tăng. Để thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo chính phủ sử dụng những chính sách tài chính công thông qua công cụ thuế và chi tài chính công. Thuế trực thu mà cụ thể là thuế thu nhập cá nhân lũy tiến từng phần có vai trò điều tiết mạnh thu nhập của những người có thu nhập cao và điều tiết ở mức hợp lý đối với các cá nhân có thu nhập trung bình hoặc thấp. Bên cạnh đó thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng thuế xuất nhập khẩu có vai trò điều tiết thu nhập thực tế có khả năng thanh toán của dân cư bằng việc đánh thuế cao với hàng hóa dịch vụ cao cấp, đánh thuế thấp với các mặt hàng dịch vụ thiết yếu đảm bảo đời sống dân cư. Với các chính sách trợ cấp trợ giá chi các chương trình mục tiêu sẽ làm giảm bớt khó khăn của người nghèo những người thuộc diện chính sách đối tượng khó khăn… thường phát huy tác dụng cao vì đối tượng xác được hưởng rất dễ xách định. Tuy nhiên điều tiết thu nhập của dân cư cần chú ý duy trì mức độ chênh lệch vừa phải để tạo điều kiện cho các cá nhân có thu nhập chính đáng được hưởng thu nhập của mình, không cao bằng thu nhập thông qua phân phối tài chính.
Như vậy, về mặt xã hội, tài chính công là một công cụ quan trọng được nhà nước sử dụng để khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường, hướng tới việc xây dựng một xã hội tiến bộ phát triển, văn minh và lành mạnh.
Vai trò của tài chính công ở Việt Nam từ năm 2008 – 2010
Đảm bảo duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước
Tài chính công được sử dụng để huy động một phần nguồn tài chính quốc gia thông qua đóng góp bắt buộc hoặc tự nguyện của các chủ thể trong nền kinh tế, tạo lập quỹ tài chính công.
Bất cứ nhà nước nào cũng sử dụng tài chính công trong mọi mô hình tài chính công để phục vụ cho công việc quản lý và điều hành nền kinh tế - xã hội. Tài chính công được sử dụng để huy động một phần nguồn tài chính của quốc gia thông qua đống góp bắt buộc hoặc tự nguyện của cách chủ thể trong nền kinh tế tạo lập quỹ tài chính công. Tài chính công phân phối sử dụng nguồn tài chính huy động từ các quỹ công để phục vụ đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Phân phối sản phẩm quốc dân theo hướng tích lũy để ổn định và phát triển kinh tế đồng thời cung cấp các nguồn vốn để thỏa mãn các yêu cầu về hàng hóa và dịch vụ công cộng mà tài chính của khu vực tư nhân không thể thực hiện được do một số đặc điểm đặc biệt của hàng hóa công. Ngoài ra phân phối của tài chính công còn đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Các con số về mức thu nhập không phản ánh được một thực tế là những người có thu nhập cao phải trả thuế cao hơn những người có thu nhập thấp, hoặc rất nhiều các gia đình có thu nhập thấp được hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ của chính phủ như vùng 135… Việc điều chỉnh sự chênh lệch này sẽ tăng phần được hưởng trong tổng thu nhập quốc gia cho các gia đình nghèo nhất và giảm phần hưởng trong tổng thu nhập của các gia đình có thu nhập cao nhất xuống. Nhưng đây vẫn là một mức chênh lệch rất lớn về thu nhập và nhiều người vẫn thắc mắc vì sao lại có điều này.
Còn một số lý do để giải thích sự chênh lệch về thu nhập này của các gia đình ngoài sự khác biệt về lương và tiền công cơ bản như đã nói ở trên và giải thích vì sao có sự thay đổi lên xuống theo thời gian trong thu nhập của các gia đình khác nhau. Ví dụ, các công nhân vừa mới gia nhập thị trường lao động (điển hình là những công nhân trẻ ít kinh nghiệm làm việc) và các công nhân già hơn đã nghỉ hưu hoặc chỉ nhận các công việc bán thời gian thường là đại diện thường xuyên của nhóm các gia đình có thu nhập thấp nhất, và điều này không gây nhiều ngạc nhiên. Hầu hết các công nhân - và đặc biệt là những người có học vấn và được đào tạo cao hơn - có thu nhập tăng hàng năm theo nghề nghiệp của họ. Những công nhân khác đôi khi bị giảm lương hoặc tiền công tạm thời khi họ tạm nghỉ việc ngắn hạn, bị ốm đau hoặc là thương tích hay các lý do khác.
Vì tất cả những lý do này, và mặc dù có sự ổn định cơ bản trong việc phân phối thu nhập nói chung, vẫn tồn tại một cơ hội lớn trong việc huy động vốn trong nền kinh tế thị trường. Điều này có nghĩa là chúng ta luôn nhìn thấy các gia đình tăng hoặc giảm các khoản thu nhập trên của họ qua từng năm. Kinh tế càng tăng trưởng, chênh lệch thu nhập giữa các dân cư, các vùng miền ngày càng gia tăng. Vậy vấn đề đặt ra là Chính Phủ sử dụng tài chính công thông qua những hình thức nào để thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
Quốc phòng là một ví dụ về vai trò không thể loại bỏ được của chính phủ - tài chính công. Tại sao? Bởi vì việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng hàng hóa hoàn toàn khác biệt so với cam, máy vi tính hay nhà ở: con người không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Trên thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả dân chúng trong một quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này, bởi vì không có một cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ không phải là các làng xã hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản xuất máy bay chiến đấu phản lực.
Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn giản là không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không bảo vệ những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người này vẫn được bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn cách thanh toán? Điều này được coi là vấn đề "kẻ ăn không", và đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng.
Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự - những hàng hóa nhiều người có thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không - do đó hầu hết các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể được các công ty tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân. Các ví dụ khác về hàng hóa công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí cả băng tần sóng phát thanh và truyền hình được phát sóng rộng rãi trong không trung. Mỗi hàng hóa này đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng cùng lúc, và cũng là đối tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các chương trình có thể được các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát sóng cho quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín hiệu phát sóng hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các chương trình này.
Tài chính công còn được sử dụng để kiểm tra giám sát các hoạt động kinh tế xã hội từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành của nhà nước. Từ các hoạt động này tài chính công đã tạo ra nguồn tài chính một cách kịp thời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước giúp cho bộ máy nhà nước được vận hành hiệu quả.
Điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế - xã hội.
Kinh tế.
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Trong giai đoạn 2008 – 2010, tài chính công đã phát huy vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội.
Công cụ thuế suất với các mức thuế khác nhau đối với từng loại sản phẩm, ngành nghề, vùng lãnh thổ, tài chính công có vai trò định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế, kích thích hoặc hạn chế phát triển sản xuất kinh doanh theo từng loại sản phẩm.
Thực hiện chiến lược, hệ thống chính sách thuế được sửa đổi, bổ sung đã góp phần đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng khá, bình quân 7% năm. Quy mô thu ngân sách nhà nước (NSNN) giai đoạn 2006 - 2010 tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 2001 - 2005.
Tỷ lệ động viên thu ngân NSNN bình quân đạt 23% GDP (không bao gồm yếu tố tăng giá, do giá dầu thô ở mức cao và thu từ đất đai) so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đặt ra là 21 - 22% GDP, trong đó động viên từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước bình quân đạt 22% GDP so với mục tiêu Chiến lược cải cách hệ thống đến năm 2010 đặt ra là 20 - 21% GDP. Tốc độ tăng thu từ thuế, phí và lệ phí vào NSNN bình quân hàng năm đạt 19,6%. Cơ cấu thu NSNN được cải thiện theo chiều hướng tích cực đảm bảo tính ổn định, bền vững, nguồn thu từ sản xuất kinh doanh trong nước tăng dần qua các năm và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu NSNN, năm 2006 tỷ trọng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) trong tổng thu NSNN là 52% thì đến năm 2010 đã tăng lên 63,4%. Có thể thấy rằng, sau 5 năm thực hiệ