Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa

Cạnh tranh là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất. Trong bất kỳ lĩnh vực nào đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Trong kinh tế, cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lý xã hội. Biện pháp kỹ thuật là áp dụng công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến, công nhân có trình độ lành nghề cao; Biện pháp kinh tế như trợ cấp tài chính, bảo hộ cho vay ưu đãi, bán phá giá,v.v.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp người ta dựa vào nhiều tiên chí: thị phần, doanh thu, lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỉ lệ công nhân lành nghề, tỉ lệ đội ngũ quản lý giỏi, nghiên cứu và sáng tạo. Ngày nay với xu hướng toàn cầu hoá, các nước trên thế giới đang xích lại gần nhau, đặc biệc Việt Nam ta đã xúc tiến rất tốt công tác hội nhập; Nước ta đã gia nhập ASEAN (1995), AFTA (1996), APEC(1998), năm 1992 đã nối lại quan hệ với IMF, WB, ADB và đặc biệt năm 2006 chúng ta đã gia nhập WTO. Việt Nam đã từng bước tham gia vào thể chế kinh tế khu vực và thế giới, đã tạo cho các doanh nghiệp nhiều thuận lợi để phát triển thị trường, huy động vốn từ nước ngoài để phát triển công nghệ, phát triển sản phẩm. Bên cạnh thuận lợi chúng ta gặp không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là cạnh tranh trong điều kiện không cân sức. Tuy có nhiều thách thức và mất mát, ta không còn con đường nào khác là phải hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải khẩn trương tạo thế và lực mới cho mình để tận dụng những thuận lợi, hạn chế những khó khăn để đứng vững và vươn lên trong cuộc cạnh tranh gay gắt hiện nay. Xu hướng toàn cầu hóa cùng với cơ chế kinh tế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, để giúp các doanh nghiệp trong việc xây dựng một tư duy, một chiến lược hành động để nâng cao vị thế cạnh tranh của mình là vấn đề cần thiết hiện nay. Xuất phát từ nhu cầu thực tế tại các doanh nghiệp tôi quyết định chọn đề tài dựa trên những kiến thức kinh tế đặc biệt là môn kinh tế vi mô để xem xét vấn đề: “Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa”.

doc27 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2730 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CẠNH TRANH, CẠNH TRANH TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 4 1. Cạnh tranh thị trường 4 2. Khái niệm và đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo 5 2.1. Khái niệm 5 2.2. Đặc điểm 5 3. Cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa 6 3.1. Khái niệm về toàn cầu hóa 6 3.1.1. Toàn cầu hóa kinh tế 6 3.1.2. Những đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế 6 3.1.2. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam 7 3.2. Cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa 8 3.2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 8 3.2.2 Xu hướng phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam 8 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 9 1. Năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp công nghiệp 9 2. Năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp nông nghiệp 10 3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành dịch vụ 11 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG CẢI TIẾN NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 13 1. Các phương hướng cải tiến nâng cao năng lực cạnh tranh xét từ khía cạnh nỗ lực của doanh nghiệp 13 2. Các phương hướng cải tiến nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp từ phía nhà nước 15 KẾT LUẬN 17 TAI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU Cạnh tranh là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất. Trong bất kỳ lĩnh vực nào đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ không có sinh tồn và phát triển. Trong kinh tế, cạnh tranh là đấu tranh để giành lấy thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng các phương pháp và biện pháp khác nhau như kỹ thuật, kinh tế, chính trị, quân sự, tâm lý xã hội. Biện pháp kỹ thuật là áp dụng công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến, công nhân có trình độ lành nghề cao; Biện pháp kinh tế như trợ cấp tài chính, bảo hộ cho vay ưu đãi, bán phá giá,v.v...Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp người ta dựa vào nhiều tiên chí: thị phần, doanh thu, lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận, thu nhập bình quân, phương pháp quản lý, bảo vệ môi trường, uy tín doanh nghiệp đối với xã hội, tài sản của doanh nghiệp nhất là tài sản vô hình, tỉ lệ công nhân lành nghề, tỉ lệ đội ngũ quản lý giỏi, nghiên cứu và sáng tạo... Ngày nay với xu hướng toàn cầu hoá, các nước trên thế giới đang xích lại gần nhau, đặc biệc Việt Nam ta đã xúc tiến rất tốt công tác hội nhập; Nước ta đã gia nhập ASEAN (1995), AFTA (1996), APEC(1998), năm 1992 đã nối lại quan hệ với IMF, WB, ADB và đặc biệt năm 2006 chúng ta đã gia nhập WTO. Việt Nam đã từng bước tham gia vào thể chế kinh tế khu vực và thế giới, đã tạo cho các doanh nghiệp nhiều thuận lợi để phát triển thị trường, huy động vốn từ nước ngoài để phát triển công nghệ, phát triển sản phẩm. Bên cạnh thuận lợi chúng ta gặp không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là cạnh tranh trong điều kiện không cân sức. Tuy có nhiều thách thức và mất mát, ta không còn con đường nào khác là phải hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải khẩn trương tạo thế và lực mới cho mình để tận dụng những thuận lợi, hạn chế những khó khăn để đứng vững và vươn lên trong cuộc cạnh tranh gay gắt hiện nay. Xu hướng toàn cầu hóa cùng với cơ chế kinh tế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, để giúp các doanh nghiệp trong việc xây dựng một tư duy, một chiến lược hành động để nâng cao vị thế cạnh tranh của mình là vấn đề cần thiết hiện nay. Xuất phát từ nhu cầu thực tế tại các doanh nghiệp tôi quyết định chọn đề tài dựa trên những kiến thức kinh tế đặc biệt là môn kinh tế vi mô để xem xét vấn đề: “Vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa”. Trong tiểu luận này chúng ta tập trung nghiên cứu mục tiêu chung của đề tài là vấn đề cạnh tranh và dựa trên một số cơ sở lý luận đã học và tham khảo các tài liệu liên hệ với thực trạng năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp Việt Nam, từ đó đưa ra kết luận và một số phương hướng cải tiến để năng cao năng lực của các doanh nghiệp việt nam trong điều kiện toàn cầu hóa và chúng ta chỉ xét các doanh nghiệp cạnh tranh trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Dựa vào mục tiêu nghiên cứu chúng ta giả thuyết rằng việc nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hiện nay là chưa đạt được hiệu quả cao, bằng các biện pháp phân tích chúng ta đi kiểm định giả thuyết trên bằng các phương pháp phân tích định lượng và định tính, dùng các câu hỏi nghiên cứu đi sâu vào chi tiết những vấn đề quan trọng của mục tiêu cần nghiên cứu ở trên để tìm ra bản chất của vấn đề. Các phương pháp được dùng để nghiên cứu đề tài này bao gồm sử dụng tổng hợp các phương pháp luận để tiếp cận vấn đề nghiên cứu, phân tích-tổng hợp, lý luận và thực tiển, phương pháp quan sát, phương pháp phân tích thống kê, dự báo, lược khảo tài liệu... Đây là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, nó đòi hỏi thời gian dài, sự sưu tầm các tài liệu có liên quan và một trình độ kiến thức nhất định. Do đó những gì tôi trình bày trong tiểu luận này có phần cô động và theo sự hiểu biết của cá nhân nên không tránh những thiếu sót và tầm nhìn hạn chế. Rất mong sự đóng góp của thầy TS. Lê Khương Ninh và những người đọc tiểu luận này. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CẠNH TRANH, CẠNH TRANH TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA CẠNH TRANH THỊ TRƯỜNG Cạnh tranh là đặc trưng cơ bản của thị trường. Cạnh tranh thị trường có thể chia làm ba loại: cạnh tranh giữa người bán và người mua, cạnh tranh giữa người mua với nhau, cạnh tranh giữa những người bán, thực chất là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Trong tiểu luận này chúng ta tập trung nghiên cứu vào loại cạnh tranh thứ ba là cuộc cạnh chính trên thương trường, đồng thời cũng là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp. Thực chất của cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp là sự giành giật các lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, bởi thế, đã bước vào kinh doanh thì bắt buộc phải chấp nhận. Thực tế cho thấy, khi sản xuất hàng hóa càng phát triển , số người bán càng tăng thị cạnh tranh càng quyết liệt. Trong quá trình ấy, một mặt, sản xuất hàng hóa với quy luật cạnh tranh sẽ lần lược gạt ra khỏi thị trường những doanh nghiệp yếu và chỉ có những doanh nghiệp có những quyết sách đúng đắn mới có thể đứng vững trên thương trường theo sự phát triển của nền kinh tế. Cạnh tranh trên thị trường giữa các chủ doanh nghiệp được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Nhưng xét theo phạm vi kinh tế cạnh tranh được chia làm hai loại. Đầu tiên là cạnh tranh giữa các ngành, nó là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, hay đồng minh các chủ doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận cao nhất. Trong quá trình cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lời nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lợi nhuận, dẫn đến kết quả là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau. Loại cạnh tranh thứ hai là cạnh tranh trong nội bộ ngành, nó được hiểu là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp thôn tính nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp quy mô kinh doanh, thậm chí có thể bị phá sản. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH HOÀN HẢO: 2.1. Khái niệm: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà trong đó các quyết định mua bán của từng người mua hay từng người bán riêng lẻ không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường. Đây là thị trường có vô số người bán (doanh nghiệp). Do vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo được gọi là người chấp nhận giá. 2.2. Đặc điểm: -Số lượng các doanh nghiệp trong ngành là đủ lớn sao cho sản lượng của mỗi doanh nghiệp là không đáng kể so với cả ngành nói chung. -Sản phẩm của ngành phải tương đối đồng nhất và tính giá như nhau để cho sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế hoàn hảo cho nhau. -Thông tin về chất lượng sản phẩm là hoàn hảo sao cho người mua nhận thấy những sản phẩm giống nhau của các doanh nghiệp khác nhau thực sự là như nhau. -Có sự tự do nhập và xuất ngành sao cho không có sự cấu kết của các doanh nghiệp hiện hành. CẠNH TRANH TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA: 3.1 Khái niệm về toàn cầu hóa: 3.1.1. Toàn cầu hóa kinh tế: Theo trình độ phát triển kinh tế cùng những đặc trưng của nềnê1 có thể chia các nước trên thế giới thành hai khối: các nước tư bản phát triển (G8) và các nước kém phát triển. Những năm gần đây các nước kém phát triển và đang phát triển, gọi chung là các nước đang phát triển đã chuyển sang mô hình kinh tế thị trường. Sự hợp tác giữa các quốc gia ngày càng phát triển đa dạng. Toàn cầu hóa thực chất là toàn cầu hóa về sản xuất, thị trường và các mặt khác như văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật nhưng trong đó toàn cầu hóa kinh tế là chủ yếu. Toàn cầu hóa kinh tế lấy thị trường làm cơ sở phát triển. Toàn cầu hóa kinh tế là tiến trình biến các nền kinh tế quốc gia thành một bộ phận của thị trường thế giới, trong đó mọi hoạt động đều diễn ra trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Các hoạt dộng này chủ yếu bao gồm hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu, tài chính tiền tệ, đầu tư quốc tế và cả văn hóa, khoa học, kỹ thuật trên cơ sở thể chế thống nhất. 3.1.2. Những đặc trưng của toàn cầu hóa kinh tế: -Thị trường mới: thị trường tư bản và ngoại hối đã toàn cầu hóa. -Công cụ mạng máy tính, các thiết bị thông ti liên lạc toàn cầu đã năng cao năng suất lao động và văn minh thị trường. -Các chủ thể mới hình thành và hoạt động của họ đang có ảnh hưởng ngày càng rộng tới sự phát triển của các nước trên thế giới. -Nhiều quy tắc mới hình thành kèm theo cơ chế hành pháp có hiệu lực và sức ràng buộc đối với các chính phủ các nước. -Sự nương tựa vào nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia ngày càng tăng. -Toàn cầu hóa đi đôi với khu vực hóa. -Toàn cầu hoá là chất xúc tác thúc đẩy tiến bộ của khoa học công nghệ, bùng nổ công nghệ thông tin, tạo tiền đề cho sự hình thành nền kinh tế mới-kinh tế tri thức. -Thương mại trong ngành và thương mại trong công ty. -Đầu tư quốc tế trực tiếp tăng với mức dộ nhanh. -Toàn cầu hóa mang đến nhiều cơ hội và thách thức cho các quốc gia. 3.1.3. Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam: Đối với nước ta toàn cầu hoá giúp ta nâng cao năng lực kinh tế của mình trên cơ sở đổi mới mọi mặt như đổi mới phương pháp quản lý, đổi mới công nghệ (công nghệ quản lý và công nghệ sản xuất), từ đó tạo ra năng suất sản phẩm và chất lượng cao, giá thành hạ, tạo tiền đề cơ bản cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, các ngành kinh tế và của quốc gia. Mặt khác toàn cầu hoá cũng tồn tại những mặt tiêu cực của nó. Những hạn chế này xuất phát từ những lợi ích khác nhau giũa các nước, đặc biệt là giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển đặc biệt là môi trường cạnh tranh là cuộc cạnh tranh không cân sức giữa các doanh nghiệp của các nước đang phát triển (phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn non yếu) với doanh nghiệp của các nước phát triển (là các tập đoàn xuyên quốc gia đã phát triển lâu đời, dày dạn kinh nghiệm thương trường). 3.2. Cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa: 3.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. 3.2.2. Xu hướng phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam phần lớn có quy mô vừa và nhỏ. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chính phủ đã tổ chức lại các tổng công ty, thành lập các tập đoàn quốc tế... kinh doanh trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay. Nhà nước đã ban hành nhiều luật và hàng loạt chính sách tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài hoạt động, đã có những chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các doanh nghiệp này lớn mạnh và đủ sức vươn lên cạnh tranh được ở thị trường trong và ngoài nước. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước thời kỳ 2001-2010 : “Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh, xuất-nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển mạnh những hàng hóa, dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm; nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao”. Để thực hiện được yêu cầu trên các doanh nghiệp cần phải nỗ lực hơn nữa để nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình và đặt ra một thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. 1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP: Các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đang trong quá trình thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài để góp phần tích cực vào việc đổi mới công nghệ và chất lượng sản phẩm. Một số mặt hàng may mặc, giày dép, dầu thô, điện tử, máy tính và linh kện, sản phẩm phần mềm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng liên tục. Tuy nhiên, chất lượng sản phẩm còn kém, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn thấp, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu nhiều nữa mới có thể đứng vững trong cạnh tranh. Nhìn chung, toàn ngành công nghiệp Việt Nam còn yếu. Những ngành kinh tế được xem là mũi nhọn chỉ mới hình thành như điện tử-tin học-viễn thông-hóa chất, cơ khí, chưa phải là chỗ dựa phát triển cho các ngành khác như nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, thủy sản, v.v...những ngành hàng công nghiệp nhẹ tuy có phát triển xuất khẩu như giày-da, dệt-may, ...thì trang bị công nghệ chưa phải là tiên tiến, trình độ tay nghề chưa cao, năng suất lao động thấp, giá cả chưa hấp dẫn. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu hiện nay hoặc là xuất khẩu dưới dạng thô (dầu mỏ), hoặc hàm lượng chất xám thấp (giày da, dệt may), chưa có tính sáng tạo cao. Sản phẩm xuất khẩu từ khâu sản xuất chứ không phải từ khâu đầu tiên là marketting, thiết kế, chưa có thương hiệu riêng, còn mượn danh người khác, nhiều người tiêu dùng trên thế giới chưa biết đến sản phẩm của Việt Nam, uy tín của doanh nghiệp chưa có rất khó cạnh tranh trên thị trường. 2. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp): Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thuận tiện cho việc phát triển các loại cây nông sản: lương thực, rau quả, rừng và biển thì đa dạng và phong phú tài nguyên cung cấp nhiều loại nguyên liệu quý giá để tạo ra nhiều mặt hàng có giá trị phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp, trừ một số mặt hàng như thủy sản, cà phê, điều, tiêu, gạo, trái cây đặc sản có năng lực cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, đa số các doanh nghiệp còn lại năng lực cạnh tranh yếu như một số doanh nghiệp kinh doanh chè, rau, quả, thịt, các thực phẩm chế biến khác. Những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nhưng chưa bền vững, chưa chắc chắn vì chất lượng chưa được ổn định, thị trường chưa được cũng cố vững chắc, thương hiệu chưa có, môi trường tại những nơi nuôi trồng và chế biến chưa đảm bảo tốt. Các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này cần nhận rõ tính cấp bách của hội nhập khu vực và quốc tế. Phải nhanh chóng đổi mới tổ chức, đổi mới công nghệ quản lý (sản xuất, quản lý, môi trường, nhân lực...). đẩy mạnh hoạt động xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá. Nhanh chóng đưa chất lượng các sản phẩm của mình ngang bằng hoặc tốt hơn chất lượng sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại trên thị trường trong và ngoài nước. Để làm được điều nay các doanh nghiệp Việt Nam phải phấn đấu làm cho hàng hoá của mình tốt hơn, giá rẻ hơn so với hàng của các doanh nghiệp khác, của nước khác. Một điều quan trọng cần đặc biệt lưu ý đối với hàng nông-lâm-ngư nghiệp của ta phải tuyệt đối đảm bảo vệ sinh an toàn, đặc biệt là đối với các sản phẩm xuất khẩu. 3. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NGÀNH DỊCH VỤ: Doanh nghiệp dịch vụ nếu phân theo chức năng gồm có dịch vụ ngân hàng, tài chính, du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, tư vấn, đào tạo, y tế, sửa chữa, vệ sinh, v.v.... “Các dịch vụ tài chính trong nước hiện nay vẫn còn nằm trong tình trạng kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho các khu vực kinh tế và cho các doanh nghiệp ngoài ngành phát triển. Tình hình tài chính tiền tệ chưa vững chắc, chứa đựng nền móng mất ổn định kinh tế. Tỷ lệ nợ khó đòi cao, nợ chưa thanh toán trong xây dựng cơ bản còn khá lớn, việc sử dụng tiền gởi ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn vượt quá giới hạn an toàn, lãi suất tín dụng quá cao so với khả năng sinh lời của các doanh nghiệp. (Nguồn: Báo cáo của Chính phủ trên báo Nhân dân ngày 22/10/2003). Các dịch vụ hành chính rất trì trệ, rất chậm đổi mới, gây cản trở rất nhiều tới sự phát triển của đất nước như phát triển đầu tư, phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại và các doanh nghiệp dịch vụ khác. Các dịch vụ hành chính Việt Nam được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp vào nhóm thấp. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông, vận tải đều có giá cao. Giá điện Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực, chất lượng điện không đảm bảo tốt, cắt điện thường xuyên làm ảnh hưởng tới sản xuất khác. Dịch vụ viễn thông Việt Nam, chất lượng đường truyền thấp, thường xuyên gián đoạn làm ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả hoạt động của nhiều ngành kinh doanh khác. Giá cước vận chuyển của nhiều loại hình vận chuyển khá đắt so với các nước. Các dịch vụ du lịch tổ chức còn luộm thuộm, thiếu văn minh, làm giảm đi mối thiện cảm của khách du lịch. Các dịch vụ bổ trợ như quà tặng, hàng lưu niệm quá nghèo nàn, tính hấp dẫn kém. Tóm lại, các doanh nghiệp dịch vụ thương mại, năng lực cạnh tranh của các loại hình doanh nghiệp dịch vụ khác của Việt Nam còn yếu về tất cả các tiêu chí như trình độ nhân lực, tổ chức quản lý và kinh doanh, tiềm lực tài chính, công nghệ, môi trường kinh doanh... CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG CẢI TIẾN NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Phân tích và đánh giá năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và của doanh nghiệp Việt Nam để chúng ta hiểu một cách thấu đáo, sâu sắc hơn về doanh nghiệp. Qua đó đưa ra một số phương hướng cải tiến nâng cao năng lực cạnh tranh để bảo đảm cho sự tồn tại của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh, hoặc năng lực cạnh tranh thấp dễ dàng bị loại khỏi cuộc chơi. Hiện nay và trong tương lai, quá trình toàn cầu hóa phát triển rộng và sâu, hàng hóa dịch vụ tạo ra ngày càng phong phú, đa dạng với trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ cao, việc tiêu thụ chúng trở nên khó khăn, dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm giữa các công ty trong một ngành, trong một quốc gia và giữa các quốc gia càng trở nên gay gắt. Việt Nam đã gia nhập WTO, cánh cửa toàn cầu hóa đang rộng mở, chính phủ cần phải ban hành các chính sách minh bạch, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động bình đẳng. Các doanh nghiệp phải chuẩn bị mọi mặt để tạo ra sản phẩm của mình có năng lực cạnh tran
Luận văn liên quan