Trong những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa đã đẩy mạnh xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, dẫn đến những thay đổi về qui mô và quyền lực tài chính giữa các nước phát triển và đang phát triển.
Trong khi nền kinh tế Mỹ đã đóng vai trò chính trong nền kinh tế thế giới suốt từ sau thế chiến 2 cho đến những năm 1990, từ cuối thế kỷ qua đã chứng kiến sự nổi lên của một số nền kinh tế lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil. Những thay đổi này đã gây tác động đến dòng vốn quốc tế và tỉ giá hối đoái, từng bước hình thành sự điều chỉnh quốc tế. Thêm vào đó, sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của Mỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.
Cả thế giới đang dõi theo từng biến động của đồng USD và đã đưa ra nhiều kịch bản cho sự biến động của đồng tiền này. Bởi lẽ, mặc dù đang có chiều hướng đi xuống nhưng USD vẫn là đồng tiền đóng vai trò chủ đạo trong các giao dịch quốc tế và kinh tế của Mỹ vẫn chiếm giữ vị trí số 1 của kinh tế toàn cầu. Nhận thấy đây là một đề tài mang tính thời sự và có “sức nóng”, nhóm tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Vị thế đồng USD qua các giai đoạn. Tác động đối với Việt Nam”. Dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của Giảng viên ..........., nhóm tôi đã rất cố gắng để hoàn thành đề tài. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn, bài viết của nhóm không thế tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn
38 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3344 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vị thế đồng USD, ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Trong những năm gần đây, xu thế toàn cầu hóa đã đẩy mạnh xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, dẫn đến những thay đổi về qui mô và quyền lực tài chính giữa các nước phát triển và đang phát triển.
Trong khi nền kinh tế Mỹ đã đóng vai trò chính trong nền kinh tế thế giới suốt từ sau thế chiến 2 cho đến những năm 1990, từ cuối thế kỷ qua đã chứng kiến sự nổi lên của một số nền kinh tế lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil. Những thay đổi này đã gây tác động đến dòng vốn quốc tế và tỉ giá hối đoái, từng bước hình thành sự điều chỉnh quốc tế. Thêm vào đó, sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của Mỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.
Cả thế giới đang dõi theo từng biến động của đồng USD và đã đưa ra nhiều kịch bản cho sự biến động của đồng tiền này. Bởi lẽ, mặc dù đang có chiều hướng đi xuống nhưng USD vẫn là đồng tiền đóng vai trò chủ đạo trong các giao dịch quốc tế và kinh tế của Mỹ vẫn chiếm giữ vị trí số 1 của kinh tế toàn cầu. Nhận thấy đây là một đề tài mang tính thời sự và có “sức nóng”, nhóm tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Vị thế đồng USD qua các giai đoạn. Tác động đối với Việt Nam”. Dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của Giảng viên ..........., nhóm tôi đã rất cố gắng để hoàn thành đề tài. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ có hạn, bài viết của nhóm không thế tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Mục đích nghiên cứu
Nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Những biến động tài chính của nước này tác động rất lớn đến mọi nền kinh tế, trong đó có Việt Nam. Do đó, nghiên cứu vị thế của đồng USD qua các giai đoạn để từ đó hiểu được vai trò cũng như những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế nước ta để có những phản ứng chính sách tỷ giá cho phù hợp là mục đích chính của nhóm tôi khi nghiên cứu đề tài này.
Kết cấu đề tài
Đề tài được nghiên cứu theo 3 phần chính:
Phần I: Sự hình thành và phát triển của đồng USD
Phần II: Vai trò của USD đối với nền kinh tế thế giới
Phần III: Những dự báo về đồng USD trong tương lai và các giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá đồng
PHẦN I: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐỒNG USD
Khái quát về hệ thống tiền tệ
Các mối quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và các quan hệ kinh tế đối ngoại của các quốc gia nói riêng bằng cách này hay cách khác đều được biểu hiện thông qua các quan hệ tiền tệ. Từ đây đã hình thành nên hệ thống tiền tệ. Hệ thống tiền tệ là tập hợp các quy tắc, thể lệ và tổ chức nhằm tác động tới các quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia trên thế giới. Do mỗi hệ thống tiền tệ ra đời và chỉ vận hành có hiệu quả trong những điều kiện thích hợp về kinh tế, chính trị và xã hội nhất định nên khi những điều kiện này thay đổi sẽ dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ . Cho đến nay đã có năm hệ thống tiền tệ được sử dụng, bao gồm: chế độ bản vị vàng, hệ thống Giơ – Noa, hệ thống Bretton Woods (còn gọi là chế độ bản vị USD), hệ thống Giamaica, và chế độ bản vị SDR.
Phân loại hệ thống tiền tệ
Hệ thống tiền tệ có thể được phân thành hai giai đoạn:
Giai đoạn trước Đại chiến Thế giới lần thứ hai. Khi đó, hệ thống tiền tệ được chia thành:
+ Chế độ bản vị vàng (tỷ giá theo ngang giá vàng)
+ Chế độ bản vị hối đoái vàng
+ Chế độ bản vị vàng thoi
Giai đoạn sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, gồm:
+ Chế độ bản vị USD (chế độ tỷ giá cố định)
+ Chế độ SDR (chế độ tỷ giá thả nổi)
Quá trình hình thành và phát triển của đồng USD
Đồng đô la Mỹ là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ. Hiện nay trên thế giới ngoài Hoa Kỳ, còn có một vài quốc gia khác cũng dùng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình và nhiều quốc gia khác cho phép dùng đôla Mỹ trong thực tế (nhưng không chính thức).
Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất
Cả thế giới sử dụng chế độ bản vị vàng. USD mới xuất hiện như đồng tiền của một quốc gia.
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, chế độ bản vị vàng sụp đổ. Đến khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, đồng USD trở thành đồng tiền chủ chốt của thế giới
1.3.3. Giai đoạn từ 1973 – 1980
Các giao dịch quốc tế dựa trên chế độ tỷ giá thả nổi mới được hình thành. Đồng USD trở về với vai trò là một đồng tiền quốc gia, nhưng vẫn là một đồng tiền mạnh.
Giai đoạn đỉnh cao 1980 – 1985
Trong giai đoạn này, USD liên tục tăng giá.
Sau cuộc khủng bố 11/9 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho đến nay
Đồng USD liên tục mất giá sau cuộc khủng bố nhắm vào nước Mỹ và tiếp tục giảm mạnh sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng hiện nay đang có xu hướng tăng trở lại.
PHẦN II: VAI TRÒ (VỊ THẾ) CỦA ĐỒNG USD ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI
Vai trò của đồng USD trong nền kinh tế thế giới qua các giai đoạn
2.1.1. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, nền kinh tế thế giới vận hành theo hệ thống bản vị vàng (tiền tệ của mỗi nước được qui đổi ra vàng theo một tỷ lệ được định rõ). Hệ thống này dẫn tới các tỷ lệ hối đoái cố định - tức là, tiền tệ của mỗi nước có thể đổi ra tiền của mỗi quốc gia khác theo một tỷ giá không thay đổi xác định trước. Tỷ giá hối đoái cố định đã khuyến khích thương mại thế giới phát triển bằng việc xóa đi tính không chắc chắn liên quan tới các tỷ giá dao động, nhưng lại có hai nhược điểm. Thứ nhất, dưới hệ thống bản vị vàng, các nước có thể không kiểm soát được các mức cung tiền của chính mình; đúng hơn, mức cung tiền của mỗi nước được xác định bởi dòng tiền vàng được sử dụng để quyết toán các khoản nợ của mình với những nước khác. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở tất cả các nước bị ảnh hưởng mạnh bởi nhịp độ sản xuất vàng. Trong giai đoạn này đồng USD chỉ đơn thuần đóng vai trò là 1 đồng tiền quốc gia.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai
Các quốc gia đã cố gắng phục hồi lại hệ thống bản vị vàng, nhưng nó đã sụp đổ hoàn toàn trong cuộc Đại khủng hoảng của những năm 1930. Sự sụp đổ này đã là cho quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế trở nên rối ren, dẫn đến sự hình thành các liên minh tiền tệ do một số nước tư bản đầu sỏ cầm đầu. Khu vực đồng đô la do Mỹ cầm đầu tồn tại bên cạnh các “đối thủ không hơn kém” là khu vực đồng Bảng Anh và khu vực đồng Phơ-răng Pháp. Nhưng sau Đại chiến thế giới lần thứ II, Mỹ trở thành một cường quốc mạnh nhất thế giới về ngoại thương, về tín dụng quốc tế và là nước có dự trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm khoảng ¾ tổng dự trữ vàng của toàn bộ thế giới tư bản). Đây chính là những yếu tố tạo nên thế mạnh cho đồng đô la Mỹ trên trường quốc tế, đưa đồng tiền này “lên ngôi” đồng tiền chủ chốt của thế giới.
Tháng 7 năm 1944, Hoa Kỳ đã đứng ra triệu tập Hội nghị tiền tệ - tài chính quốc tế tại thành phố Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước để thoả thuận về việc thiết lập các quan hệ tài chính tiền tệ quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần II. Được gọi là chế độ tiền tệ Bretton-woods. Nội dung chủ yếu của chế độ tiền tệ Bretton-woods:
- Thừa nhận USD là đồng tiền chuẩn, làm trụ cột cho chế độ tiền tệ này. Nó được coi là phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế, đóng vai trò chủ chốt trong các quan hệ tiền tệ, thanh toán và tính dụng quốc tế. Nhiều thập kỷ qua, đồng đôla vẫn là đồng tiền các nước trên thế giới có xu hướng sử dụng trong kinh doanh. Hầu hết các ngân hàng trung ương trên thế giới giữ phần lớn lượng dự trữ ngoại tệ bằng đồng đôla, mặt khác, hầu hết các hàng hóa được giao dịch trên toàn cầu (như dầu lửa) cũng được định giá bằng đồng tiền của nước Mỹ này.
- Việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế và các quan hệ đối ngoại khác không hạn chế, các đồng tiền của các nước khác phải liên hệ chặt chẽ với USD theo chế độ tỷ giá cố định.
- Các nghiệp vụ về vàng được thực hiện theo 1 giá chính thức là 35 USD = 1 ounce vàng. Đô la Mỹ được tự do chuyển đổi ra vàng theo giá đó. Ngân hàng trung ương của các nước thành viên phải can thiệp vào thị trường vàng để giữ giá vàng chính thức luôn luôn ở mức 35 USD = 1 ounce vàng.
- Các nước phải thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để loại trừ chế độ kiểm soát và quản chế ngoại hối, đồng thời thiết lập chế độ tiền tệ tự do chuyển đổi.
- Thiết lập một tổ chức tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ tiền tệ - tài chính quốc tế theo những nguyên tắc của chế độ tiền tệ Bretton-woods.
Giai đoạn từ năm 1973 đến những năm 1980
Qua 2 lần phá giá USD, năm 1973, Mỹ và các quốc gia khác đã chấp thuận cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi. Chế động tiền tệ Bretton Woods sụp đổ. Hệ thống tiền tệ thế giới hình thành nên 1 số chế độ tiền tệ mới:
- Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca ra đời trên cơ sở Hiệp định được ký kết giữa các nước thành viên IMF tại Gia-mai-ca vào những năm 1976-1978. Chế độ tiền tệ này thừa nhận SDR là cơ sở của chế độ tiền của các nước. SDR trở thành một đơn vị tiền tệ tính toán quốc tế mới. Giá trị của nó được xác định theo phương pháp rổ tiền tệ, lúc đầu rổ tiền tệ gồm 16 đồng tiền mạnh nhất của thế giới. Hiện nay, tham gia “rổ tiền tệ” là 5 đồng tiền mạnh của những quốc gia có tiềm lực về kinh tế, tài chính. Như vậy, chế độ tiền tệ Gia-mai-ca thực chất là chế độ bản vị SDR.
- Chế độ tiền tệ châu Âu: Chế độ tiền tệ châu Âu là một chế độ tiền tệ quốc tế khu vực. Chế độ tiền tệ này ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giữa ba trung tâm thế lực quốc tế trong lĩnh vực thương mại, tiền tệ, tài chính ngày càng trở nên gay gắt. Nó được xây dựng trên cơ sở Hiệp định tiền tệ do các nước trên lục địa châu Âu ký kết vào tháng 3-1979. Chế độ tiền tệ châu Âu dựa vào ECU - một đơn vị tiền tệ quốc tế khu vực của các nước châu Âu. Giá trị của ECU được đảm bảo bằng dự trữ vàng và ngoại hối của các nước thành viên.
USD lại trở về vị trí đồng tiền quốc gia. Nhưng do tiềm lực kinh tế của Mỹ rất lớn, cho nên USD vẫn còn là một đồng tiền mạnh, đồng thời nó vẫn chiếm 1 tỷ trọng đáng kể trong quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia của các nước.
Giai đoạn 1980 – 1985
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm 1985 đồng USD không ngừng tăng giá, tỷ giá danh nghĩa của USD tăng gần 50% và tỷ giá thực cũng tăng với một tỷ lệ tương tự. Một trong những nguyên nhân chính khiến cho đồng USD lên giá mạnh là vì Chính phủ Mỹ áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng nới lỏng chính sách tài khoá dẫn đến thâm hụt ngân sách (từ 16 tỷ $ năm 1979 lên 204 tỷ $ năm 1986). Tuy nhiên việc USD liên tục lên giá làm phát sinh nhiều mối quan tâm lớn đó là ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và gây thâm hụt cán cân vãng lai.
Sau sự kiện khủng bố 11/09 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho đến nay
Sau sự kiện khủng bố tại Mỹ và sự ra đời chính thức của đồng Euro, đồng USD liên tục mất giá so với các các ngoại tệ khác và vàng (trong 05 năm qua, đồng USD đã mất giá 25%). Đồng euro ngày càng được các công ty cũng như các chính phủ từ Trung Quốc đến Trung Đông chấp nhận nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ . Đồng đô la Mỹ có lúc trồi sụt, gây thiệt hại kinh tế, mất an toàn cho nền tài chính tiền tệ các nước và nhiều nước chủ trương thay thế vị trí độc tôn của USD bằng euro. Theo Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF), dự trữ ngoại tệ toàn cầu trong quí 1 -2006 xấp xỉ 4,34 ngàn tỷ USD. Trong số đó, đồng USD chiếm 66,3% và đồng euro 24,8%. Kinh tế toàn cầu, vốn đang bị tác động bởi cuộc khủng hoảng thị trường tài chính và sự suy giảm kinh tế của Mỹ, hiện đang đứng trước mối nguy hiểm, với đồng USD giảm giá và vượt khỏi tầm kiểm soát. Thêm vào đó là mối lo sợ các ngân hàng trung ương đột ngột tung nguồn dự trữ USD không lồ của họ ra để mua các phương tiện dự trữ khác thay thế và các nước Trung Đông có thể từ bỏ chế độ tỷ giá gắn kết với USD.
Sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân thanh toán của Mỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20% tính từ năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.
Trong thời gian qua, thị trường tiền tệ thế giới có nhiều biến động với việc đồng USD giảm giá kỷ lục so với các đồng tiền chủ chốt cũng như so với các đồng tiền châu Á khác. Trong giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 9/2007, giá trị đồng USD đã giảm 5,4% so với đồng Euro và giảm 6,8% so với đồng Yen Nhật. Kể từ đầu năm 2007 tới nay, đồng USD nhìn chung đã mất giá khoảng 16%.
Đồng USD liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm 2007. Đồng USD đã thực sự đạt được một dấu mốc khi nó vượt cả mức thấp nhất so với đồng Mark Đức hồi đầu năm 1995, tương đương với khoảng 1,455-1,457 USD/Mark và đồng Euro tăng lên với 1 Euro đổi được 1,48 USD. Đồng đôla Canada (CAD) đã tăng lên mức cao nhất trong gần nửa thế kỷ qua so với đồng USD, tương đương với 1 CAD đạt xấp xỉ 1,05 USD. Đồng Bảng Anh đã có lúc tăng lên 2,0317 USD/bảng Anh - mức cao nhất kể từ năm 1981.
Trên các thị trường châu Á, đồng USD liên tục giảm giá so với đồng baht Thái Lan và đạt ngưỡng 34 Baht/USD - mức thấp nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998. Kể từ đầu năm 2007, giá của đồng Baht đã tăng 7%, sau khi tăng 12% vào năm 2006. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao nhất trong 7 năm qua so với đồng USD, trong khi đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ 10 năm nay. Tại Ấn Độ, đồng Rupee tăng 12% so với đồng USD trong năm. Còn đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan đều tăng mạnh so với đồng USD. Đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc liên tục lập các mức cao kỷ lục mới trong nhiều phiên giao dịch liên tiếp. Nếu tính từ đầu năm đến nay, đồng NDT đã 67 lần lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên 4%. Đồng đôla Australia (AUD) cũng đã tăng lên 0,9023 USD/AUD - mức cao nhất trong 23 năm qua.
Các nguyên nhân khiến cho đồng USD giảm giá:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá các đồng tiền, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của chính sách lãi suất trên khắp thế giới, sự mất cân đối thương mại, những điểm khác biệt về tăng trưởng kinh tế và chính sách kiểm soát tiền tệ.
- Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ và quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong năm 2007. Và gần đây là những lo ngại về lĩnh vực cho vay thế chấp yếu, gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Mất cân bằng trong cán cân thanh toán là vấn đề đáng lo ngại trong vòng 10 năm trở lại đây đối với nhiều nước. Theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), mức thâm hụt cán cân buôn bán của Mỹ trong năm 2006 tương đương 6% GDP, mức cao chưa từng có trong lịch sử nước này. Trong khi đó, một số nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản lại đạt thặng dư thương mại ngày càng lớn. Năm 2006, thặng dư thương mại của Nhật Bản đạt 3,9% GDP, trong khi con số này của Trung Quốc là 9,4% GDP. Các số liệu Hải quan Trung Quốc cũng cho biết khối lượng thặng dư mậu dịch của nước này trong 9 tháng đầu năm đã lên tới 185,7 tỷ USD, vượt qua cả số lượng thặng dư mậu dịch của cả năm 2006 (177,47 tỷ USD). Dự đoán thặng dư thương mại năm 2007 của Trung Quốc sẽ tăng lên 250 - 300 tỷ USD. Xu hướng thâm hụt thương mại kéo dài đã tạo nên áp lực khiến đồng USD tiếp tục giảm giá.
- Một nhân tố khác cũng có tác động đồng thời lên đồng USD là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đồng USD yếu đã kích thích luồng vốn lớn từ nước ngoài đổ vào Mỹ. Nhờ vào việc đồng Euro có sức mua mạnh, các doanh nghiệp trong khu vực Eurozone và Anh có thể đẩy mạnh chuyển hướng đầu tư và mua lại các công ty Mỹ. Năm 2000, khi người ta bắt đầu đề cập tới vấn đề đồng Euro yếu, châu Âu đã đầu tư 125 tỷ USD vào Mỹ dưới dạng FDI. Năm 2006, con số này đã giảm xuống chỉ còn 122 tỷ USD và trong 6 tháng đầu năm 2007 mới chỉ có 12,1 tỷ USD được giải ngân trong lĩnh vực này. Trong khi đó, luồng FDI từ Mỹ sang châu Âu đã tăng từ 77 tỷ USD năm 2000 lên 127 tỷ USD năm 2006, và trong 6 tháng đầu năm 2007, con số này cũng đã đạt 85 tỷ USD. Như vậy, tính từ năm 2006 đến nay, dòng vốn FDI có xu hướng chảy từ Mỹ sang châu Âu. Và xu hướng này cũng đã được kiểm chứng trên phạm vi toàn cầu khi mà trong 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn FDI vào Mỹ là 85 tỷ USD, trong khi lượng vốn chạy ra khỏi Mỹ lại lên tới 150 tỷ USD. Thêm vào đó là cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt từ năm 1989 khiến cho các luồng tài chính phải chịu sức ép không thuận lợi của việc đồng USD mất giá.
Đồng USD ngay lập tức bị ảnh hưởng sau khi vài quan chức ngân hàng Trung Quốc phát biểu rằng Trung Quốc có thể thay đổi cơ cấu tiền tệ của kho dự trữ ngoại hối khổng lồ. Tính đến cuối tháng 9/2007, dự trữ ngoại tệ của quốc gia này đã lên tới 1.430 tỷ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều đối tác làm ăn của Trung Quốc cho rằng các kho dự trữ ngoại tệ này tăng từ 40-50 tỷ/tháng trong 6 tháng đầu năm nay khiến cho đồng NDT bị đánh giá thấp hơn giá trị thật của nó.
- Tiền tệ luôn có xu hướng di chuyển qua biên giới để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Bởi vậy, tiền tệ sẽ tăng khi thị trường kỳ vọng vào triển vọng kinh tế khả quan và giảm khi kinh tế suy giảm. Sự mạnh lên hay yếu đi về kinh tế được thể hiện trong thu nhập từ trái phiếu và lãi suất trái phiếu của quốc gia đó. Vào thời điểm này, thị trường cho rằng nền kinh tế Mỹ đang phát triển chậm lại. Bởi vậy, các nhà đầu tư đã liên tục từ đồng USD sang các loại tiền tệ khác cho lãi cao hơn.
- Tuy nhiên, các nhân tố kinh tế vĩ mô này cũng chưa giải thích toàn bộ các vấn đề trên thị trường ngoại hối. Theo quan điểm của IMF và bộ trưởng tài chính các nước G7, sự định giá quá thấp của các đồng tiền châu Á, đặc biệt là đồng NDT của Trung Quốc và đồng Yen Nhật, là nguyên nhân chính khiến đồng tiền chủ chốt trong thanh toán quốc tế này giảm giá. Để hạn chế sự mất cân bằng thương mại hiện nay, Trung Quốc và Nhật Bản cần phải kích thích tiêu dùng nội địa và không định hướng chính sách tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Để làm được điều đó, không có gì thích hợp hơn là áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi để cho đồng nội tệ tự định giá. Đối với Trung Quốc, biện pháp này không những có thể giúp họ kiềm chế xuất khẩu và hạn chế những tác động do lạm phát gây ra, mà việc tăng giá đồng NDT còn tạo điều kiện cho người dân Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng hóa của Mỹ và châu Âu hơn. Kịch bản này cũng nên được Nhật áp dụng và nếu điều đó thành hiện thực, thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm bớt và đồng USD khi đó sẽ có thể tăng giá trở lại.
Những tác động tiềm tàng
Đồng USD mất giá đang là bài toán hóc búa cho giới quản lý các kho dự trữ ngoại tệ lớn của thế giới. Đối với các nước, như Trung Quốc và các nước vùng Vịnh vốn gắn tỷ giá đồng nội tệ với đồng USD, thì sức ép của nguy cơ lạm phát có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng cho kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, bất kỳ động thái nào nhằm gỡ bỏ mối liên hệ với đồng USD cũng sẽ ảnh hưởng lên thị trường tiền tệ, gây tổn thất về giá trị tài sản cho các kho dự trữ ngoại tệ của các nước này. IMF cho biết các kho dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu hiện tăng từ 2.000 tỷ USD trong quý II/2002 lên 5.700 tỷ USD đến quý II/2007. Hơn thế nữa, 2/3 trong tổng số quỹ dự trữ ngoại tệ trên toàn thế giới nằm trong tay 6 nền kinh tế như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Nga và Singapore.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc nhiều đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so với đồng USD trong năm nay đã khiến cho hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn và lượng ngoại tệ dự trữ bị giảm giá trị. Giá trị đồng USD sụt giảm sẽ khiến cho các mặt hàng xuất khẩu của các nước châu Á trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở Mỹ. Ấn Độ và Thái