Vị thế và đặc trưng thi pháp của thể loại lục bát trong thơ mới 1932 - 1945

Thơ mới1932 - 1945 vừa với t- cách là một phong trào, vừa với t- cách là một cuộc cách tân thơ, là hiện t-ợng thơ lớn nhất ở thời kỳ non nửa đầu thế kỉ XX (1900 - 1945). Cho đến lúc này, chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định: Thơ mới1932 - 1945 đánh dấu b-ớc đột khởi ch-a từng có trong lịch sử thơ ca dân tộc; với nó, thơ Việt thực sự đ-ợc hiện đại hóa, mang tính loại hình sâu sắc của thơ hiện đại. Nh-ng vấn đề là, ở đây, sự hiện diện cũng nh- vai trò quan trọng của các thể loại thơ truyền thống mà tiêu biểu nhất là thơ lục bát - một thể loại dễ bị coi là "bảo thủ" [1] trên hành trình đi đến hiện đại của thơ ca Việt Nam cần đ-ợc đánh giá nh- thế nào, nó có những biến đổi gì về mặt thi pháp để thể hiện những nội dung mới của thời đại?.

pdf10 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2837 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vị thế và đặc trưng thi pháp của thể loại lục bát trong thơ mới 1932 - 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 29 vị thế và đặc tr−ng thi pháp của Thể loại lục bát trong thơ mới 1932 - 1945 biện thị quỳnh nga (a) Tóm tắt. Thơ mới 1932 - 1945 đánh dấu b−ớc đột khởi ch−a từng có trong lịch sử thơ ca dân tộc; với nó, thơ Việt thực sự đ−ợc hiện đại hóa, mang tính loại hình sâu sắc của thơ hiện đại. ở đây, sự hiện diện của các thể loại thơ truyền thống - mà tiêu biểu nhất là thơ lục bát - cần đ−ợc đánh giá nh− thế nào? Và đâu là những biến đổi về thi pháp thể loại của nó?. Nhằm trả lời, luận giải cho vấn đề này, bài viết nghiên cứu, xác định vai trò, vị thế và những đặc tr−ng thi pháp của thể loại lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945, từ đó để thấy đ−ợc những đóng góp khó có thể thay thế của thể loại này cho thơ Việt Nam hiện đại. 1. Vị thế của thể loại lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945 1.1. Thơ mới 1932 - 1945 vừa với t− cách là một phong trào, vừa với t− cách là một cuộc cách tân thơ, là hiện t−ợng thơ lớn nhất ở thời kỳ non nửa đầu thế kỉ XX (1900 - 1945). Cho đến lúc này, chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định: Thơ mới 1932 - 1945 đánh dấu b−ớc đột khởi ch−a từng có trong lịch sử thơ ca dân tộc; với nó, thơ Việt thực sự đ−ợc hiện đại hóa, mang tính loại hình sâu sắc của thơ hiện đại. Nh−ng vấn đề là, ở đây, sự hiện diện cũng nh− vai trò quan trọng của các thể loại thơ truyền thống mà tiêu biểu nhất là thơ lục bát - một thể loại dễ bị coi là "bảo thủ" [1] trên hành trình đi đến hiện đại của thơ ca Việt Nam cần đ−ợc đánh giá nh− thế nào, nó có những biến đổi gì về mặt thi pháp để thể hiện những nội dung mới của thời đại?. 1.2. Tr−ớc hết, cần thấy bức tranh chung của thể loại Thơ mới 1932 - 1945. Xin xem bảng hệ thống thể loại Thơ mới 1932 - 1945 sau đây đ−ợc chúng tôi thống kê từ 1083 tác phẩm của 89 nhà thơ đ−ợc tuyển chọn trong cuốn Thơ mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm [2] (Đây là công trình tập hợp khá đầy đủ Thơ mới 1932 - 1945 - tác giả và tác phẩm do Lại Nguyên Ân tập hợp và biên tập. Các cứ liệu về Thơ mới 1932 - 1945 trong bài viết này căn cứ vào cuốn sách vừa nêu). Tên gọi thể thơ, ngoài các thể thơ đã có tên gọi quen thuộc - tức đã đ−ợc định danh - nh− lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt (bao hàm cả tứ tuyệt Đ−ờng luật và tứ tuyệt "tự do"), thất ngôn bát cú Đ−ờng luật, thể hành (một dạng của thơ Cổ phong), hợp thể hoặc thơ "tự do"; các thể khác, chúng tôi tạm gọi tên thể thơ theo số chữ / câu thơ: thơ 2 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ. 1.3. Điều đáng chú ý đầu tiên là thể loại lục bát giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống thể loại Thơ mới 1932 - 1945. Qua khảo sát và thống kê hệ thống thể loại Thơ mới 1932 - 1945, chúng tôi nhận thấy: Ngoài các thể thơ phổ biến nh− thể 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, hợp thể và "tự do"; các thể loại thơ truyền thống mà nổi bật là thể lục bát đ−ợc nhiều nhà thơ khai thác, vận dụng. Trên hành trình đi đến hiện đại của thơ Việt, sự hiện diện của các thể Nhận bài ngày 07/5/2007. Sửa chữa xong 14/8/2007. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 30 loại thơ truyền thống mà tiêu biểu nhất là lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945 thực sự có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong cuộc “cạnh tranh” giành vị thế và đáp ứng yêu cầu của độc giả hiện đại so với các thể loại khác của Thơ mới 1932-1945, thể loại lục bát đã chứng tỏ đ−ợc vai trò không thể thay thế đ−ợc của mình. Về số l−ợng, thể loại lục bát có 147 tác phẩm, chiếm 13,6%; Nếu so với hai thể loại đ−ợc Thơ mới sử dụng nhiều nhất là thể 7 chữ và 8 chữ thì lục bát chiếm gần bằng 1/3. Hai thể tứ tuyệt và bát cú Đ−ờng luật chính thống của văn học trung đại đã bị lục bát v−ợt xa cả về số l−ợng và chất l−ợng. Đặc biệt thể lục bát còn tỏ ra chiếm −u thế hơn hẳn thể loại thơ “tự do” - "mới" đ−ợc thế hệ các"nhà thơ mới" sáng tạo nên. Các nhà thơ của phong trào Thơ mới 1932-1945 hình nh− ít ai không một lần đến với thể thơ này, thậm chí nhiều ng−ời còn đạt con số hàng chục bài. Tr−ớc nhất phải kể đến Nguyễn Bính với 29 tác phẩm toàn bằng thể lục bát trong tổng số 57 sáng tác của ông. Thứ đến là các tên tuổi nh−: Hồ Dzếnh: 15 bài, Trần Huyền Trân: 20 bài, Xuân Diệu: 6 bài và Huy Cận, Mộng Sơn, Thế Lữ mỗi ng−ời đều 7 bài... Thể lục bát không chỉ khẳng định mình trên thi đàn chỉ bằng số l−ợng mà ý nghĩa hơn, lục bát còn sống mãi trong lòng ng−ời bằng những tác phẩm mang giá trị cổ điển nh−: Chân quê, Lỡ b−ớc sang ngang (Nguyễn Bính), Buồn đêm m−a (Huy Cận), Tiếng sáo thiên thai (Thế Lữ), Chiều (Xuân Diệu)... Thực tế này cho thấy lục bát – một thể thơ cổ truyền của dân tộc đến thời hiện đại, trong thế “cạnh tranh” với nhiều thể loại Thơ mới, vẫn có vị thế vững chắc trên thi đàn. Đây là điều mà chỉ duy nhất thể lục bát có đ−ợc so với các thể thơ truyền thống khác. Đó là ch−a kể tới những tác phẩm làm bằng thể loại khác có xen lục bát. Hình thức khẳng định chủ yếu của lục bát trong Thơ mới 1932-1945 là các tác phẩm trữ tình có dung l−ợng nhìn chung là nhỏ. Tác phẩm có dung l−ợng ngắn nhất là Hoa cỏ may (Nguyễn Bính) với một cặp lục bát t−ơng đ−ơng 2 đơn vị dòng câu. Chiếm phần nhiều là những bài thơ lục bát chứa khoảng 2 cặp 6/8 (15 bài), 4 cặp 6/8 (14 bài), 5 cặp 6/8 (10 bài), 6 cặp 6/8 (17 bài) và 7 cặp 6/8 (11 bài). Thuộc vào loại dung l−ợng lớn phải kể đến các tác phẩm: Lỡ b−ớc sang ngang (Nguyễn Bính) với 55 cặp lục bát, Lòng son sắt (Phạm Huy Thông) với 49 cặp, Độc hành ca (Trần Huyền Trân) với 46 cặp. Tác phẩm dài nhất là bài thơ Bóng ai (Cẩm Lai) cũng chỉ có 70 cặp lục bát t−ơng ứng với 140 đơn vị dòng - câu. Lục bát tồn tại d−ới hai dạng khác nhau. Dạng thứ nhất, các dòng thơ dắt nối nhau từ đầu đến cuối tạo thành những bài thơ trọn vẹn, nh− các bài: Tiếng sáo thiên thai (Thế Lữ), Lỡ b−ớc sang ngang (Nguyễn Bính), Buồn đêm m−a (Huy Cận)... Tạm gọi đây là lục bát nguyên thể. Dạng thứ hai, phối hợp và xen kẽ với các thể thơ khác (4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng, tự do, v.v...) để làm thành bài thơ, có thể gọi là lục bát phối xen. Trong dạng phối xen này có bài lấy thể thức lục bát làm nền (nh− bài Về nẻo thanh tuyền của Trần Dần), cũng có bài lấy các thể khác làm nền (nh− bài M−ời hai tháng sáu của Vũ Hoàng Ch−ơng, Lên chơi trăng của Hàn Mặc Tử, Tr−ờng tình của Tchuya (Đái Đức Tuấn). Lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945 đã khai thác triệt để, đa dạng các chức năng và nội dung thể loại nhằm thể hiện những cung bậc cảm xúc, những trạng huống tâm hồn phong phú, tinh vi của những hồn Thơ mới. Trong đó nổi bật nhất là chức năng trữ tình với nội dung bày tỏ t− t−ởng, tình cảm của cái Tôi cá nhân cá thể... Khảo sát một thể loại văn học, theo chúng tôi cần căn cứ trên 3 ph−ơng diện: Chức năng, nội dung và thi pháp thể loại. ở đây, do khuôn khổ của bài báo (theo quy định của tạp chí), bài viết này chỉ tập trung khảo sát ở ph−ơng diện thi pháp của thể loại. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 31 2. Đặc tr−ng thi pháp thể loại lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945 2.1. Tr−ớc hết, xét trên ph−ơng diện đặc điểm thi luật của thể thơ, có thể thấy các "nhà thơ mới" có nhiều tâm đắc với thể loại này (tiêu biểu nh− Thế Lữ, Huy Cận, Nguyễn Bính, Xuân Diệu...) đều đảm bảo mô hình "chính thể" (tức mô hình chuẩn, đơn vị cơ bản của bài thơ là một cặp câu lục bát chiếm 2 dòng thơ, dòng trên 6 tiếng, dòng d−ới 8 tiếng) của thơ truyền thống. Hầu hết, những bài thơ làm theo thể lục bát trong hệ thống thể loại Thơ mới 1932 - 1945 đều kế thừa trọn vẹn cấu trúc câu thơ lục bát x−a. Thứ hai, về cách thức gieo vần và phối nhịp: Hầu hết các "nhà thơ mới" đều tận dụng triệt để sự kết hợp 2 loại vần l−ng và vần chân phổ biến trong lục bát truyền thống. Lục bát Thơ mới thiên về thanh bằng và chủ yếu sử dụng thanh bằng tạo tính nhạc du d−ơng, êm đềm... Chẳng hạn, ở 4 cặp câu lục bát sau đây, tất cả đều gieo vần bằng và 40/56 là tỷ lệ thanh bằng đ−ợc dùng so với thanh trắc: Tiếng đ−a hiu hắt bên lòng. Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn (Thế Lữ - Tiếng sáo thiên thai). Đêm m−a làm nhớ không gian. Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la (Huy Cận - Buồn đêm m−a). Không gian nh− có dây tơ. B−ớc đi sẽ dứt động hờ sẽ tiêu (Xuân Diệu - Chiều). Láng giềng đã đỏ đèn đâu. Chờ em ăn giập miếng giầu em sang (Nguyễn Bính - Chờ nhau). Thứ ba, lục bát Thơ mới cũng kế thừa cách ngắt nhịp đôi th−ờng thấy trong lục bát ca dao, lục bát Truyện Kiều. 147 bài thơ lục bát nguyên thể, kể cả những bài thơ lục bát phối xen trong Thơ mới 1932 - 1945 chủ yếu là ngắt nhịp này. Ví dụ: Ngắt nhịp 2 / 2 / 2 - 2 / 2 / 2 / 2: Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông Một ng−ời / chín nhớ / m−ời mong / một ng−ời (Nguyễn Bính - T−ơng t−) Nghe đi / rời rạc / trong hồn Những chân / xa vắng / dặm mòn / lẻ loi (Huy Cận - Buồn đêm m−a) Ngắt nhịp 2 / 2 / 2 - 4 / 4: Đ−ờng xa / ngoảnh lại / ngẩn ngơ Trông theo mây trắng / thẫn thờ mắt xanh (Hằng Ph−ơng - Lòng quê) Thứ t−, cùng với việc kế thừa những đặc tr−ng của lục bát cổ điển truyền thống, để diễn tả tâm tình của một thế hệ mới, bảo đảm đ−ợc cái ấn t−ợng chuẩn mực cho thể thơ, các "nhà thơ mới", khi cần thiết đã biết xử lý linh hoạt các yếu tố thi luật của thể loại trên những dòng thơ cụ thể, tạo nên những đặc sắc thi pháp của lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945. 2.2. Đặc tr−ng thi pháp thể loại của lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945 đặc biệt đ−ợc thể hiện rõ trên các ph−ơng diện: cấu trúc, vần, nhịp, giọng điệu, ngôn ngữ, nghệ thuật tổ chức câu thơ, dòng thơ và nghệ thuật đối. 2.2.1. Khảo sát 147 bài thơ lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945, tác giả và tác phẩm, chúng tôi nhận thấy có một hiện t−ợng đặc biệt nổi lên xét về mặt cấu trúc, đó là hiện t−ợng lẻ một dòng lục (6 chữ) cuối bài (nghĩa là kết bài không phải là dòng bát - tám chữ nh− th−ờng thấy). Việc trao vai trò kết bài cho dòng lục (6 chữ) hẳn không phải là không có nguyên cớ. Một mặt, có thể do ảnh h−ởng của cách kết ở thể loại hát nói (bài hát nói chính cách bao giờ cũng kết thúc bằng câu 6 chữ), mặt khác, có lẽ với dụng ý diễn tả những sắc thái cảm xúc bất th−ờng xảy ra trên dòng mạch đều đều của tâm trạng (đ−ợc tạo nên từ kiểu kiến trúc dòng 6 tiếp dòng 8 lần l−ợt luân phiên đều đặn của thể lục bát) mà các nhà thơ mới nảy sinh ý t−ởng đặt dòng 6 cuối bài vừa có vai trò kết, vừa có vai trò mở, gợi nhiều liên t−ởng cho cảm nhận của ng−ời đọc! Dòng mạch cảm xúc của thi nhân đ−ơng buồn rầu bỗng d−ng chững lại một niềm thảng thốt, ngậm ngùi: Chén sầu đổ −ớt tr−ờng giang Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 32 Canh gà bên nớ giằng sang bên này Lạy giời đừng sáng đêm nay Đò quên cập bến tôi say suốt đời, Chiêu Quân lên ngựa mất rồi... (Nguyễn Bính - Một con sông lạnh) Hoặc bâng khuâng, lơ lửng, kéo dài không bao giờ dứt: Dỗ lòng, nguôi nhớ th−ơng đâu Kim nam châm lựa h−ớng sầu trở ra. Gió buồn chiều lạnh vai sa... (L−u Quang Thuận - Bản đồ) Hiện t−ợng này chỉ xảy ra trong 3 tác phẩm: Một con sông lạnh, Con nhà nho cũ (Nguyễn Bính), Bản đồ (L−u Quang Thuận), và trong một bài thơ lục bát phối xen: Thoát tục của Tchya. Về cơ bản, các bài thơ lục bát của Thơ mới 1932 - 1945 vẫn h−ớng tới mô hình cấu trúc đã trở thành chuẩn mực, điển phạm của lục bát cổ điển. 2.2.2. Việc gieo vần của lục bát Thơ mới 1932 - 1945 có gì đ−ợc "làm mới"?. Tr−ớc hết, cần phân biệt hai khía cạnh trong hiện t−ợng này, một là âm điệu của vần, hai là vị trí gieo vần. ở khía cạnh thứ nhất, các nhà thơ "hoàn toàn h−ớng tới sự chuẩn mực của thơ cách luật, nghĩa là hoàn toàn sử dụng vần bằng. Hơn thế, họ còn cố gắng đạt đ−ợc mức độ hòa âm cao bằng cách triệt để sử dụng vần chính". Chẳng hạn, nh− ở các bài thơ lục bát dài hơi nh− Lỡ b−ớc sang ngang (Nguyễn Bính), Độc hành ca (Trần Huyền Trân). ở đây, tỷ lệ các dòng thơ sử dụng các bộ vần có khuôn âm trùng khít là: 87/110 dòng (Lỡ b−ớc sang ngang), 50/92 dòng (Độc hành ca); số vần còn lại tuy gieo vần thông nh−ng mức độ hòa âm cũng khá rõ, nh− "đời" gieo với "c−ời"... Về vị trí gieo vần, thực ra khó có thể đổi khác so với hình mẫu lục bát cổ điển truyền thống. Khả năng gieo vần ở tiếng thứ t− dòng bát, vốn khá quen thuộc với "lỗ tai" dân gian cũng không đ−ợc Thơ mới quan tâm vận dụng nhiều nh− thơ lục bát hiện đại sau Thơ mới 1932 - 1945. Tr−ờng hợp gieo vần ở tiếng thứ t− câu bát chỉ xẩy ra một lần trong bài Sáng quê của Hồ Dzếnh: Gió đ−a mặt trời dần cao Khóm tre rì rào muôn tiếng chim kêu. Nh− vậy, cách thức gieo vần của lục bát trong Thơ mới 1932 - 1945 hầu nh− không biến đổi. Nhắc lại điều đã đ−ợc khẳng định chúng tôi chỉ nhằm nhấn mạnh một điều rằng: các "nhà thơ mới" đã biết vận dụng và khai thác triệt để đặc tr−ng gieo vần vốn có của thể thức lục bát, kết hợp với cách ngắt nhịp chẵn, một mặt nhằm đảm bảo cho các dòng thơ liên kết với nhau một cách hài hoà, trôi chảy, không gây ấn t−ợng gò ép lỏng lẻo; mặt khác tạo âm h−ởng nhẹ nhàng, thanh thoát, rất thích hợp với việc diễn tả những nỗi buồn mơ hồ và kéo dài, những tình cảm bâng khuâng th−ơng nhớ, vừa lơ lửng lại vừa quẩn quanh, bế tắc của cái tôi Thơ mới 1932 - 1945. 2.2.3. Bên cạnh cách thức gieo vần là nhịp điệu của thể thơ. Nhịp ngắt thông th−ờng phổ biến trong thể lục bát là nhịp chẵn, mỗi nhịp 2 tiếng. Cách ngắt nhịp lẻ, mỗi nhịp 3 tiếng trong một số tác phẩm lục bát cổ điển cũng lặp lại phần nhiều trong các bài lục bát Thơ mới. Tuy nhiên, các nhà thơ mới đã không cố chấp giữ nguyên diện mạo cũ mà đã tìm cách "đa dạng hoá" cách thức ngắt nhịp. Chẳng hạn, ngắt nhịp 2/4 - 2/2/2: Hôm nay / trời nhẹ lên cao Tôi buồn / không hiểu / vì sao / tôi buồn (Xuân Diệu - Chiều) Nhịp 4/2 - 2/2/4: Nắng chia nửa bãi / chiều rồi V−ờn hoang / trinh nữ / xếp đôi lá sầu (Huy Cận - Ngậm ngùi) Nhịp 2/4 - 2/1/3/2: Non xanh / ngây cả buổi chiều Nhân gian / e / cũng tiêu điều / d−ới kia (Huy Cận - Thu rừng) Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 33 Đặc biệt có không ít câu thơ đ−ợc ngắt nhịp hết sức mới lạ, hiện đại: nhịp 2/4 - 3/1/4: T−ơng t− / thức mấy đêm rồi Biết cho ai / hỏi / ai ng−ời biết cho (Nguyễn Bính - T−ơng t−) Nhịp 1/5 - 2/2/2/2: Vâng/ từ ân ái nhỡ nhàng Tình tôi / than lạnh / gió tàn / làm sao (Nguyễn Bính - Ng−ời hàng xóm) Nhịp 4/2 - 2/1/3/2: Cái gì nh− thể / nhớ mong Nhớ nàng? / không? / Quyết là không/ nhớ nàng (Nguyễn Bính - Ng−ời hàng xóm) Nhịp 1/2/3: Rồi.../ gió s−ơng / trả gió s−ơng (Trần Huyền Trân - Khóc Tản Đà) Nhịp 2/1/1/2 - 2/2/2/2: Tôi say? / Th−a / trẻ / ch−a đầy Cái đau / nhân thế / thì say / nỗi gì? (Trần Huyền Trân - Uống r−ợu với Tản Đà). Nhịp 1/1/1/3 - 1/3/2/2: Bóng,/ tôi,/ tôi,/ bóng trùng trình Nàng,/ tôi đuổi mãi / ...canh tà,/ tà canh (Cẩm Lai - Đuổi bóng) Sự đa dạng, phong phú trong cách ngắt nhịp câu thơ đã góp phần biểu hiện những "phức điệu tâm hồn" của con ng−ời thời đại mới mà lục bát nhịp đôi khó có khả năng biểu đạt. Ví nh− cách ngắt nhịp 4/2 - 2/1/3/2 trong câu thơ: Cái gì nh− thể / nhớ mong. Nhớ nàng? / không? / Quyết là không / nhớ nàng (Nguyễn Bính), là tiết nhịp của tâm trạng đầy mâu thuẫn, vừa muốn phủ định lại vừa muốn đón nhận niềm rung cảm mới: tình yêu. Cách ngắt nhịp mới lạ hiện đại này là một cơ sở để phân biệt lục bát của Nguyễn Bính với lục bát của ca dao. 2.2.4. Về phối thanh (luật bằng trắc), ngoài phần nhiều những bài lục bát theo sát khuôn mẫu đã đ−ợc xác lập, trong lục bát Thơ mới, có một số ít tr−ờng hợp "phạm luật". Tiếng thứ 2, tiếng thứ 4 dòng lục từ bằng chuyển thành trắc và từ trắc chuyển thành bằng. Sự thay đổi này theo chúng tôi là do sự chi phối của dòng cảm xúc nhân vật trữ tình. Âm điệu câu thơ có lúc trúc trắc do nhiều thanh trắc đi liền nhau: úp mặt vào hai bàn tay. Chị tôi khóc mất một ngày một đêm (Nguyễn Bính - Lỡ b−ớc sang ngang). Hay có lúc thanh thoát: Hồn anh nh− hoa cỏ may. Một chiều cả gió bám đầy áo em (Nguyễn Bính - Hoa cỏ may) là do nhịp lòng cần phải đi nh− thế. Sở thích sử dụng thanh bằng là một đặc tính của các nhà thơ mới. Trong quyền tự do lựa chọn của mình đối với những tiếng nằm ở vị trí lẻ (tự do về bằng trắc) trong mô hình phối điệu, các nhà thơ đã đặt vào đó rất nhiều thanh bằng liền nhau để diễn tả những cung bậc buồn vui của lòng ng−ời. Huy Cận trong bài Buồn đêm m−a đã khéo dùng nhiều thanh bằng nối tiếp nhau suốt chiều dài bài thơ để diễn tả cái buồn nhẹ nhàng mà thấm thía, d− ba trong lòng ng−ời theo tiếng m−a rơi: Tai n−ơng n−ớc giọt mái nhà Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn... Rơi rơi dìu dịu... rơi rơi Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ.... Các bài thơ Tiếng sáo thiên thai của Thế Lữ, Mơ tiên của Bích Khê cũng có những hình thái biểu hiện t−ơng tự. 2.2.5. Giọng điệu và ngôn ngữ là ph−ơng diện quan trọng hàng đầu của mọi tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh−ng quyết định là do phong cách cá nhân, phong cách thể loại. Giọng điệu luôn gắn liền với ngôn ngữ. Giọng điệu quyết định việc lựa chọn ngôn ngữ và ngôn ngữ là cơ sở tạo tính nhạc cho giọng điệu. Âm h−ởng chung của Thơ mới 1932 - 1945 là "buồn đau, u sầu" (cũng là giọng điệu chính của thơ lãng mạn). Âm điệu ấy tràn vào Thơ mới 1932 - Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 34 1945 ở tất cả các thể loại, đặc biệt rất phù hợp với thể lục bát. Vốn là một thể thơ có nguồn gốc dân gian nên lục bát có một chất giọng rất đặc tr−ng - trữ tình nhẹ nhàng, êm ái và sâu lắng, thiết tha với nhịp "đ−a nôi". Giọng điệu này cộng h−ởng với âm điệu buồn đau, u sầu của thời đại Thơ mới, tạo nên chất giọng riêng khó có thể trộn lẫn của lục bát Thơ mới1932 - 1945. Lục bát Thơ mới th−ờng có những tiếng thở buồn sầu, chán nản: Tuổi son má phấn môi hồng. B−ớc chân về đến nhà chồng là thôi (Nguyễn Bính). Có khi đó là những tiếng lòng đầy bâng khuâng, man mác, cô liêu: V−ờn hoang, nhà vắng, cây th−a. Lòng tôi sầu tủi đã vừa mấy xuân. Ngày kia tôi sẽ từ trần. V−ờn hoang liêu lại mấy lần hoang liêu (Mộng Huyền - V−ờn hoang)... Có những phong cách vốn hợp với giọng tráng ca nh−ng khi tìm về với lục bát d−ờng nh− cũng bị "mềm hoá" đi. Thay cho âm h−ởng tráng ca - lịch sử trong những vần thơ tự do là giọng điệu đầy hoài niệm, da diết, khắc khoải, thấm đẫm nhân tình trong thơ lục bát: M−a bay trắng lá rau tần Thuyền ai bốc khói xa dần bến m−a Có ng−ời về khép song th−a Để rêu ngõ trúc t−ơng t− lá vàng (Trần Huyền Trân - Thu) Thơ mới 1932 - 1945 tiếp thu ảnh h−ởng từ nhiều nguồn trong đó có nguồn truyền thống, nhất là ở thể lục bát, nh−ng vẫn tạo đ−ợc bản sắc cho mình. Lục bát Thơ mới 1932 - 1945 vừa mang nét chung của phong cách thời đại, vừa mang nét riêng của phong cách thể loại và phong cách cá nhân. Lục bát của ca dao do đặc tr−ng của loại hình folklore, không xuất hiện giọng điệu chủ thể cá nhân. Đến lục bát trong văn học viết trung đại đã có những đổi thay quan trọng, dĩ nhiên đã mang màu sắc cá nhân, nh−ng cũng chủ yếu để tự sự (lục bát ở truyện Nôm mà đỉnh cao là Truyện Kiều - Nguyễn Du). B−ớc sang thời đại Thơ mới 1932 - 1945, ý thức về cái tôi cá nhân cá thể trỗi dậy mạnh mẽ, cái tôi này đòi hỏi đ−ợc giải phóng, đ−ợc khẳng định, vì thế "những sợi tơ lòng" lãng mạn của những cái tôi ấy, theo đó, cũng rung lên, rất nhạy cảm với những đ−ờng nét, sắc thái riêng. Lục bát Thơ mới, trên cái "giọng nền" buồn th−ơng - u sầu, có vô vàn những "nghịch âm"không thể trộn lẫn: Giọng t−ơi vui, yêu
Luận văn liên quan