Trong thời đại ngày nay, khi loài người đã bước sang cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật lần thứ 3 thì khoa học kỹ thuật đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp như lời Mác đã tiên đoán. Với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa
học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong
các sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến
trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự phát triển trong
thời đại ngày nay đòi hỏi con người phải bộc lộ đầy đủ hơn nữa "sức mạnh của bản
chất con người" của mình một cách hiện thực và sinh động hơn, phong phú và đa
dạng hơn, văn hoá và trí tuệ với những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng
động, sáng tạo của con người hiện đại. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, có
tính chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
18 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3014 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân
lực để phát triển kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Lời mở đầu
Trong thời đại ngày nay, khi loài người đã bước sang cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật lần thứ 3 thì khoa học kỹ thuật đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp như lời Mác đã tiên đoán. Với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa
học và công nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong
các sản phẩm làm ra, con người càng tỏ rõ vai trò quyết định của mình trong tiến
trình phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại. Biện chứng của sự phát triển trong
thời đại ngày nay đòi hỏi con người phải bộc lộ đầy đủ hơn nữa "sức mạnh của bản
chất con người" của mình một cách hiện thực và sinh động hơn, phong phú và đa
dạng hơn, văn hoá và trí tuệ với những cá tính độc đáo và những phẩm chất năng
động, sáng tạo của con người hiện đại. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, có
tính chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước mục tiêu
quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì nguồn nhân
lực chính là chìa khoá của sự thành công. Nguồn nhân lực với trình độ tiên tiến sẽ
chính là nhân tố đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Với
một nước đang ở trình độ thấp kém phát triển như nước ta hiện nay không thể không
xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, nâng cao dần chất lượng của người lao
động, phát huy nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu lớn lao của toàn
dân tộc, đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
I. Cơ sở lý luận của việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. Biện chứng của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự phát triển kinh
tế xã hội.
a. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất
xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con
người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau trong đó
sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội. Sản xuất vật chất được tiến
hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con
người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của
xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất
định. Cho đến nay, lịch sử loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất đó là
công xã nguyên thủy, nô lệ phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong quá trình lao động sản xuất, một mặt là quan hệ giữa con người với tự
nhiên - lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa với người người tức là quan hệ
sản xuất. Phương thức sản xuất chính là, sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một
trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất đây là quy luật cơ bản nhất của
toàn bộ lịch sử loài người, là quy luật biến đổi phát triển của các phương thức sản
xuất. Trước hết ta tìm hiểu về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất đó là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật mà trong mối
quan hệ với nhau tạo thành sức sản xuất của xã hội. Như Mác đã nói lực lượng sản
xuất bao gồm nhân tố vật chất đó là tư liệu sản xuất (bao gồm tư liệu lao động. Trong
quá trình sản xuất sức lao động của con người và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ
lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Người lao động chính là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất tác động vào
đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất, đồng thời cũng chính họ là người sáng
tạo ra công cụ lao động. Công cụ lao động là nhân tố quan trọng trong lực lượng sản
xuất. Nó là khí quan vật chất "nối dài" nhân lên sức mạnh của con người trong quá
trình lao động biến đổi thế giới tự nhiên.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được ứng dụng nhanh chóng và rộng
rãi vào sản xuất tri thức khoa học cũng là một bộ phận quan trọng trong kinh nghiệm,
kỹ năng của người lao động. Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ tác động
biện chứng lẫn nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Trong quá trình sản xuất vật chất, ngoài quan hệ giữa con người với tự nhiên
còn là mối quan hệ giữa người với người. Đó chính là quan hệ sản xuất. Quan hệ này
được phân tích theo hai giác độ
Xét trong quá trình tái sản xuất xã hội đó là mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất phân phối trao đổi và tiêu dùng.
Nếu phân tích trên 3 lớp quan hệ đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức - quản lý sản xuất quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Ba quan hệ này có tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật
chất của đời sống xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, chúng
tồn tại khách quan độc lập với ý muốn chủ quan của con người.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng
trong mỗi quá trình sản xuất. Trong mối quan hệ đó vai trò quyết định thuộc về lực
lượng sản xuất bởi vì nó là nội dung vật chất của quá trình đó. Tính quyết định đó thể
hiện là tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có thì cũng
cần có một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp nhằm bảo tồn, khai thác, sử dụng và
phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời những biến đổi trong nội dung vật chất của
lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến khả năng biến đổi của các quan hệ sản xuất.
Với tư cách hình thức kinh tế của quá trình sản xuất thì quan hệ sản xuất lại có
vai trò ảnh hưởng trở lại với lực lượng sản xuất. Sự tác động này biểu hiện trên hai
khả năng với nhu cầu khách quan của việc bảo tồn, sử dụng và khai thác có hiệu quả
các lực lượng sản xuất và do đó có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trong trường hợp ngược lại thì nó lại kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Dưới sự tác động của nhiều nhân tố như sự tích lũy dần kinh nghiệm mà trong
thời đại ngày nay với sự tác động trực tiếp và nhanh chóng của các tri thức khoa học
kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất thì lực lượng sản xuất không ngừng
biến đổi và phát triển. Nhưng sự biến đổi và phát triển đó trong một giới hạn nhất
định thì chưa tạo ra nhu cầu khách quan của sự biến đổi các quan hệ sản xuất. Khi sự
biến đổi đó tới một giới hạn nhất định cả về số lượng và chất thì tất yếu sẽ đặt ra nhu
cầu khách quan là cải cách, cải tổ và cao hơn là một cuộc cách mạng tới tận cơ sở
quan hệ sản xuất tư liệu chủ yếu.
Tuy nhiên những quan hệ sản xuất không tự nó biến đổi mà nó cần đến những
cuộc cải cách; cách mạng trên phương diện chính trị và thể chế Nhà nước, cơ chế
Nhà nước vì rằng những quan hệ sản xuất bao giờ cũng mang một hình thức pháp lý,
chính trị văn hóa.
Như vậy một yêu cầu khách quan được đặt ra có tính nguyên tắc đối với các
quá trình xác lập, hoàn thiện những quan hệ sản xuất phải dựa trên trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất hiện có.
ở nước ta đổi mới đã có những biểu hiện vận dụng chưa đúng quy luật này
biểu hiện ở việc chủ quan, nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa mà không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất nước ta. Một quan hệ sản
xuất tiên tiến không phù hợp với trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất, nó đã kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất nước ta trong một thời gian dài. Từ đổi mới
1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nước ta đã lựa chọn
con đường phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, bởi lẽ trình độ lực lượng sản xuất
nước ta còn thấp kém, không đồng đều. Sự không đồng đều về trình độ của lực lượng
sản xuất đòi hỏi phải có sự đa dạng phong phú của các quan hệ sản xuất.
b. Lực lượng sản xuất xã hội là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại lịch sử xã hội.
Trong những hang đá lâu đời nhất, người ta đã tìm thấy những công cụ và
những vũ khí bằng đá. Việc sử dụng và sáng tạo những tư liệu lao động tuy đã có
mầm mống ở một vài loài vật nào đó nhưng vẫn là đặc trưng nổi bật nhất của lao
động con người. Con người đã phát triển tư liệu lao động lên một trình độ cao hơn,
ngày càng đáp ứng tốt hơn quá trình sản xuất. Sản xuất phát triển trong tất cả các
ngành làm cho sức lao động của con người có khả năng sản xuất được nhiều tư liệu
hơn số tư liệu cần thiết cho sinh hoạt của họ, làm tăng sản lượng lao động hàng ngày
mà mỗi thành viên của thị tộc, của công xã gia đình hoặc 1 vợ 1 chồng.
Trong lúc của cải làm ra nhiều, mở rộng phạm vi sản xuất, tư hữu xuất hiện thì
ở những điều kiện lịch sử nhất định sự phân công lao động xã hội lớn đầu tiên tất
nhiên sẽ đưa đến chế độ nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành 2 giai cấp
chủ nô và nô lệ. Kiểu sản xuất tập thể hay hợp tác theo lối nguyên thủy rõ ràng là sự
tất yếu của từng cá nhân riêng lẻ chứ không do xã hội hóa tư liệu sản xuất.
Sự phát triển phi thường của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh
chóng của sản xuất trong các xí nghiệp ngày càng lớn, là một trong những đặc tính
đặc sắc nhất của chủ nghĩa tư bản.Giai cấp tư sản trong quá trình thống nhất giai cấp
chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng sản xuất bằng tất cả những lực lượng
sản xuất của các thế hệ trước cộng lại. Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên đã
cho chúng ta thấy hoạt động của loài người có khả năng đến mức nào. Nó tạo ra các
kỳ quan khác hẳn thời kỳ cổ đại. Giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không luôn
luôn cánh mạng hóa công cụ sản xuất do đó cách mạng hóa quan hệ sản xuất. Điều
này trái với tất cả các giai cấp thống trị trước kia thì việc duy trì nguyên vẹn phát
triển sản xuất cũ là điều kiện đầu tiên cho sự tồn tại của họ.
Chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh tế xã hội cao nhất trong lịch sử. Giai cấp
công nhân đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến giữa vai trò lãnh đạo xã hội. Khi
lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao thì quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trở lên lỗi thời kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó phải
được thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn đó là quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội là lực lượng sản xuất tiên tiến, có
tính xã hội hóa cao mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản khi đó con người làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu.
Mỗi thời đại lịch sử được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định
mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại lịch sử xã hội. Xã
hội phát triển từ thấp đến cao xét đến cùng cũng là do lực lượng sản xuất quyết định.
2. Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát triển của
phương thức sản xuất.
Dù hình thức xã hội của sản xuất như thế nào, người lao động và tư liệu sản
xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố của sản xuất. Muốn có sản xuất nói chung thì
người lao động và tư liệu sản xuất phải kết hợp với nhau. Con người sử dụng công cụ
lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm cho xã hội. Lực lượng
sản xuất là yếu tộ động, luôn luôn biến đổi dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Nếu mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thích hợp thì sẽ thúc
đẩy sản xuất phát triển. Như vậy có thể nói rằng lực lượng sản xuất là yếu tố cách
mạng nhất của sản xuất. Trong thực tế lịch sử xã hội loài người, sự phát triển của sản
xuất đều được đánh dấu bằng sự tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất. Các
cuộc cách mạng kỹ thuật đã mang lại sự thay đổi vượt bậc của quá trình sản xuất xã
hội về cách thức sản xuất, phương thức tổ chức quản lý..
Sự khác nhau giữa một thời đại này với một thời đại kinh tế khác là phương
thức chế tạo,là những tư liệu lao động dùng để chế tạo chứ không phải là cái người ta
chế tạo ra. Những tư liệu lao động là thước đo sự phát triển của người lao động và là
những chỉ số của những quan hệ xã hội trong đó người lao động làm việc. Nguồn gốc
sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội chính là ở sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan
hệ sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi và do đó phương thức sản xuất cũ được thay thế bằng phương thức sản
xuất mới tiến bộ hơn, hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh
tế xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình này diễn ra một cách khách quan không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan.
3. Nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
a. Khái niệm
Hiện nay nhiều khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Ngân hàng thế giới
cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề
nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất,
kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.
Chúng ta có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về
chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức vị thế xã hội… tạo nên năng lực
của người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội.
Khi ta nói tới nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư cách là chủ
thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa
học - công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi
lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người
được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con
người ngày càng đa dạng và phong phú. Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững
phải quan tâm đào tạo nguồn lực con người và có chất lượng ngày càng cao. Muốn
thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá
trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đây là giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nước có điểm xuất
phát thấp từ một nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu
của nước ta trong thời kỳ quá độ là "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Để thực hiện được mục tiêu này, việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng đầu.
b. Nhân tố người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất đó là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động của con người
và tư liệu sản xuất.Trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động" [V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxơcơva, 1977,
t.38, tr.430] chính người lao động là chủ thể của quá trình lịch sử sản xuất, với sức
cạnh tranh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là
công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người
ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển,
hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
Cùng với người lao động thì công cụ thì công cụ lao động cũng là một yếu tố
cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công
cụ lao động cũng là sản phẩm do trí tuệ của con người sáng tạo ra. Với quá trình tích
lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không
ngừng được cải tiến và hoàn thiện và nó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất.
Từ sự biến đổi và phát triển của hai yếu tố tư liệu lao động và sức lao động mà
lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Suy đến cùng nhân tố người lao động
chính là nhân tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất. Ngày nay trong sự phát
triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Lao động trí tuệ
ngày càng đó vai trò chủ yếu, nó thúc đẩy sản xuất phát triển bằng những ứng dụng
thành tựu khoa học vào sản xuất. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao
động hiện đại không còn là thói quan, kinh nghiệm của họ và là tri thức khoa học.
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tùy thuộc vào
chúng ta có phát huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam bước vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định "Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".
[Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.10, tr.310].
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xây dựng trên lĩnh vực kinh tế, người lao động
đã trở thành người làm chủ đất nước làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản
xuất, từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh
và làm chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước
ngày càng giàu đẹp.
II. Việc phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa của Việt Nam hiện nay
1. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước
a. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng ta xác định công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã
hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa ở nước ta có đặc điểm phải gắn liền với hiện đại hóa bởi vì
cuộc cách mạng khoa học hiện đại đã và đang diễn ra một số nước phát triển bắt đầu
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Do đó chúng ta cần phải tranh thủ
ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tiếp cận với nền kinh tế tri thức
để hiện đại hóa những ngành, những khâu những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh để bảo vệ độc lập dân tộc. Mục tiêu tổng quát của
sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam xác định tại
Đại hội lần thức VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là "Đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại hóa"
b. Vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc đến nay đã có tới 30 nước hoàn thành công
nghiệp hóa. Một lợi thế cho những người đi sau là có sẵn vô vàn bài học thành công
và thất bại của những người đi trước. Người ta đã tổng kết và kể ra rất nhiều con
đường công nghiệp hóa khác nhau: Công nghiệp hóa cổ điển và phi cổ đ