Những khó khăn, hạn chếtrong việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao
hiệu quảhợp tác trên nhiều mặt với ASEAN, nhất là việc tháo gỡnhững vấn đề
nhạy cảm còn tồn đọng, đang và sẽtác động không thuận chiều đối với môi
trường an ninh chính trị, phát triển kinh tế- xã hội trong nước và tiến trình hội
nhập quốc tếcủa Việt Nam, cũng nhưtriển vọng quan hệViệt Nam - ASEAN.
Yêu cầu phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế đến năm 2020 đang đòi
hỏi Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại hoàn chỉnh, trong đó xác định rõ
những định hướng phát triển quan hệvới ASEAN. Từ đó sẽcụthểhóa thành
những chính sách, giải pháp cụthểnhằm khắc phục những vấn đềcòn tồn đọng,
tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN trong tình hình mới. Đểxây dựng một
chiến lược đối ngoại nhưvậy, thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện
và thấu đáo thực tiễn 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (1995 - 2010) và triển
vọng quan hệViệt Nam - ASEAN có vịtrí, tầm quan trọng nổi bật trong khoa
học nghiên cứu các vấn đềquốc tếvà chính sách đối ngoại ởnước ta hiện nay.
Từnhững cách tiếp cận nêu cho thấy, việc nghiên cứu đềtài VIỆT NAM GIA
NHẬP ASEAN TỪNĂM 1995 ĐẾN NAY: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ TRIỂN VỌNG
không chỉcó ý nghĩa cấp thiết vềmặt lý luận và khoa học, mà còn mang tính
chính trịthực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Kết quảnghiên cứu đềtài sẽlà một
đóng góp vào việc cung cấp luận cứkhoa học cho xây dựng một chiến lược phát
triển quan hệcủa Việt Nam với ASEAN thời kỳhội nhập và phát triển. Đặc
biệt, đềtài càng trởnên cấp thiết hơn trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụviệc bổsung, phát triển Cương
lĩnh (1991) và xây dựng các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứXI, trong đó có
nội dung vềquốc tếvà chính sách đối ngoại.
209 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8799 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việt Nam gia nhập Asean từ năm 1995 đến nay: Thành tựu, vấn đề đặt ra và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Häc viÖn chÝnh TrÞ-hµnh chÝnh Quèc Gia Hå ChÝ Minh
B¸o c¸o
Tæng hîp kÕt qu¶ nghiªn cøu
®Ò tµi khoa häc cÊp bé n¨m 2010
M∙sè: B.10-17
viÖt Nam gia nhËp asean tõ n¨m 1995
®Õn nay: thµnh tùu, vÊn ®Ò ®Æt ra
vµ triÓn väng
Cơ quan chủ trì: VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ
Chủ nhiệm đề tài: PGS,TS NGUYỄN THỊ QUẾ
Thư ký đề tài: ThS NGUYỄN THỊ MINH THẢO
8257
Hµ néi - 11/2010
DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN
1. Đặng Thị Lan Anh
2. CN. Hà Ngọc Biên
3. ThS. Nguyễn Văn Dương
4. TS. Hoàng Văn Đồng
5. PGS, TS. Nguyễn Hoàng Giáp
6. ThS. Phan Thị Thu Hằng
7. ThS. Trịnh Thị Hoa
8. PGS,TS. Thái Văn Long
9. ThS. Uông Minh Long
10. Nguyễn Lương Ngọc
11. ThS. Ngô Chí Nguyện
12. ThS. Phan Duy Quang
13. PGS, TS. Nguyễn Thị Quế Chủ nhiệm đề tài
14. PGS,TS. Phan Văn Rân
15. TS. Phạm Minh Sơn
16. TS. Đinh Thanh Tú
17. ThS. Nguyễn Thị Minh Thảo Thư ký khoa học
18. ThS. Tống Đức Thảo
19. CN Nguyễn Đại Thắng
20. CN Nguyễn Thị Thủy
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
AANZFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN – Ốt-xtơ-rây-lia – Niu Di-lân
ACCI Sáng kiến ASEAN về Biến đổi khí hậu
ACFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
ACIA Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN
ADB Ngân hàng phát triển châu Á
ADMM+ Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng
AEC Cộng đồng kinh tế ASEAN
AFSA Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa mậu dịch ASEAN
AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIA Hiệp định về Khu vực đầu tư ASEAN
AICO Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN
AIPO Liên minh Nghị viện ASEAN
AMBDC Hợp tác ASEAN về phát triển lưu vực sông Mê Công
AMM Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu ¸-Thái Bình Dương
APSC Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN
ARF Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
ASC Cộng đồng an ninh ASEAN
ASCC Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam ¸
ASEM Hội nghị ¸-Âu
ASOEN Tổ chức các quan chức cao cấp ASEAN về môi trường
ATIGA Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN
AU Liên minh châu Phi
BSA Thoả thuận hoán đổi song phương
CAFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
CA-TBD Châu Á - Thái Bình Dương
CEPT Hiệp định ưu đãi có hiệu lực chung
CLMV Các nước ASEAN-4 (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam)
CNĐQ Chủ nghĩa đế quốc
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CNTB Chủ nghĩa tư bản
COC Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông
DOC Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông
EAEC Cộng đồng Kinh tế Á - Âu
EAS Hội nghị cấp cao Đông Á
EEC Cộng đồng kinh tế châu Âu
EHP Chương trình Thu hoạch sớm trong khuôn khổ ACFTA
EMU Liên minh kinh tế và tiền tệ
EU Liên minh châu Âu
EWEC Hành lang kinh tế Đông - Tây
GDP Tổng thu nhập quốc nội
GMS Chương trình hợp tác phát triển tiểu vùng Mêkông mở rộng
GNP Tổng thu nhập quốc dân
IAI Sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN
IDCF Diễn đàn hợp tác và phát triển IAI
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
JIM Cuộc găp không chính thức Jakarta
KHCN Khoa học công nghệ
MRC Ủy hội sông Mê Công
NSEC Hành lang kinh tế Bắc - Nam
OAU Tổ chức thống nhất châu Phi
ODA Viện trợ phát triển chính thức
PTCSQT Phong trào cộng sản quốc tế
SAARC Hiệp hội hợp tác khu vực Nam ¸
SEANWFZ Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân
SEC Hành lang kinh tế phía Nam
SNG Cộng đồng các quốc gia độc lập
TAC Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam ¸
WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
ZOPFAN Khu vực ASEAN hòa bình, tự do và trung lập
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Phần thứ nhất: VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ
CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ NĂM 1995
ĐẾN NAY 13
1. Một số lý thuyết về liên kết khu vực 13
2. Việt Nam gia nhập ASEAN - sự mở đầu tiến trình liên kết của
Việt Nam với khu vực 28
3. Những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Việt Nam- ASEAN
sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN 38
Phần thứ hai: NHỮNG THÀNH TỰU, KHÓ KHĂN HẠN CHẾ VÀ VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY 61
1. Quá trình Việt Nam tham gia hợp tác, liên kết ASEAN 61
2. Những thành tựu và đóng góp chủ yếu của Việt nam trong hợp
tác, liên kết ASEAN 76
3. Những khó khăn, hạn chế và vấn đề đặt ra trong hợp tác, liên kết
Việt Nam - ASEAN 99
4. Vai trò của hợp tác, liên kết Việt Nam - ASEAN đối với sự phát
triển của Việt Nam 111
Phần thứ ba: TRIỂN VỌNG QUAN HỆ VIỆT NAM - ASEAN VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM
TRONG HỢP TÁC LIÊN KẾT ASEAN ĐẾN NĂM 2020 134
1. Triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN đến năm 2020 134
2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sự tham gia của Việt
Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN đến năm 2020 162
KẾT LUẬN 176
TÀI LIỆU THAM KHẢO 180
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập ngày 8/8/1967.
Từ 5 nước thành viên sáng lập ban đầu, sau 4 lần mở rộng (1984, 1995, 1997,
1999), ngày nay ASEAN đã quy tụ sự tham gia của 10 quốc gia Đông Nam Á.
Trên chặng đường hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ASEAN từ Hiệp hội của
những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên trở thành khu vực phát triển kinh
tế năng động, với dân số hơn 500 triệu người, diện tích 4,5 triệu km2, quy mô
GDP đạt gần 900 tỷ USD và tổng giá trị thương mại khoảng 800 tỷ USD. Thành
tựu ấn tượng này đã đưa ASEAN trở thành một đối tác giàu tiềm năng của nhiều
nước và tổ chức quốc tế, một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công
nhất, một thực thể chính trị - kinh tế có vai trò ngày càng nổi bật ở châu Á - Thái
Bình Dương cũng như trên thế giới.
Do những lợi thế về vị trí địa lý và đặc điểm kinh tế- xã hội nên ASEAN
có vị thế quan trọng trong quan hệ quốc tế, gắn liền với lợi ích chiến lược và
cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của nhiều cường quốc trên thế giới. Trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, khu vực này đã từng là một tiêu điểm nóng bỏng của cuộc đối
đầu Đông - Tây với sự chi phối, tương tác rất phức tạp của hình thái tam giác
chiến lược Xô - Mỹ - Trung. Quan hệ giữa các nước khu vực, cũng vì thế, bị
phân tuyến sâu sắc, thường xuyên căng thẳng giữa hai nhóm nước Đông Dương
và ASEAN. Bởi vậy, chiến tranh lạnh kết thúc mở ra cơ hội lớn cho các nước
ASEAN thực hiện ý tưởng ngay từ khi mới thành lập về thúc đẩy hợp tác, liên
kết trên quy mô toàn Đông Nam Á. Sự mở rộng ASEAN-6 thành ASEAN-10 là
bước phát triển có ý nghĩa nhất đối với ASEAN trong thập niên 90 của thế kỷ
XX. Đây là hệ quả tất yếu của sự điều chỉnh và thích ứng của ASEAN trước bối
cảnh quốc tế và khu vực thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Bước sang thế kỷ XXI, tình hình khu vực và thế giới tiếp tục có những
thay đổi to lớn và nhanh chóng. Để kịp thích ứng với tình hình mới, ASEAN một
lần nữa lại tự điều chỉnh và đổi mới. Hướng đi cho tương lai của Hiệp hội đã
được các nước thành viên nhất trí xác định rõ ràng, đó là phải đẩy mạnh liên kết
nội khối sâu và toàn diện hơn, hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN
với ba trụ cột (chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội) vào năm 2015, dựa
trên cơ sở pháp lý chung là Hiến chương ASEAN. Sự kiện này mở ra bước ngoặt
2
mới đối với sự phát triển của ASEAN trong thế kỷ XXI, đưa ASEAN từ một hiệp
hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ.
Gần hai thập niên qua kể từ năm 1991, sự phát triển năng động của ASEAN
cùng với những thành tựu đạt được trong hợp tác, liên kết nội khối và những nỗ
lực mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, nhất là với các nước lớn, làm cho
ASEAN ngày càng thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Vị thế của
ASEAN càng trở nên quan trọng hơn không chỉ xét từ góc độ địa - chính trị và
quân sự - chiến lược như trước đây, mà cả ý nghĩa địa - kinh tế và văn hoá...
Cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và các nước ASEAN là
những nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó lâu đời. Vào
thời điểm tiến hành đổi mới, Việt Nam đứng trước những khó khăn, thử thách
nghiêm trọng: kinh tế - xã hội khủng hoảng gay gắt, an ninh quốc gia bị đe dọa
bởi tình trạng vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, các thế lực đế quốc và thù
địch xiết chặt bao vây cấm vận, quan hệ đối ngoại bị thu hẹp trước hết là do
những trở ngại từ “vấn đề Cam-pu-chia”. Đối với Việt Nam, đòi hỏi bức bách
đặt ra là phải tìm cách thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá được thế
bị bao vây cô cô lập về đối ngoại, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức một cách sâu
sắc rằng, để có môi trường quốc tế hoà bình và ổn định đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước, thì trước tiên phải xây dựng được mối quan hệ hữu nghị với các
nước láng giềng khu vực. Do vậy, Việt Nam ngày càng chủ động đổi mới tư duy
đối ngoại, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt
thù”, từng bước hình thành và triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa, dành ưu tiên xứng đáng cho việc cải thiện, củng cố,
phát triển quan hệ với các nước láng giềng khu vực, trong đó có các nước
ASEAN.
Sự cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, tiến tới gia nhập ASEAN
(7/1995) là một quá trình Việt Nam xử lý hàng loạt vấn đề đối ngoại phức tạp.
Từ sau Đại hội VI của Đảng (1986), Việt Nam chú trọng thúc đẩy đối thoại với
ASEAN, coi việc nhanh chóng đạt được giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề
Cam-pu-chia là khâu đột phá trong quan hệ với ASEAN. Hiệp định Pa-ri về
Cam-pu-chia được ký kết ngày 23/10/1991 mở ra bước phát triển mới của quan
hệ Việt Nam- ASEAN. Sự kiện này còn tác động tích cực đến tiến trình bình
thường hóa quan hệ Việt - Trung, Việt - Mỹ, từng bước đưa Việt Nam thoát ra
khỏi vòng bị bao vây, cô lập kéo dài của các thế lực quốc tế thù địch.
3
Từ khi gia nhập ASEAN đến nay, Việt Nam năng động phát triển quan hệ
với các nước trong Hiệp hội trên cả bình diện song phương lẫn đa phương.
Thành tựu đạt được trong quá trình tham gia ASEAN không chỉ giúp Việt Nam
tạo lập, củng cố môi trường hòa bình bình xung quanh đất nước, đáp ứng yêu
cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, mà còn tạo điều kiện thuận lợi
để Việt Nam bảo đảm những lợi ích chiến lược thiết yếu. Việt Nam tranh thủ
được các nguồn lực trong khu vực, khai thác lợi thế của ASEAN, phát huy nội
lực, phục vụ sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với ASEAN đồng
thời cũng góp phần cải thiện rõ rệt thế trong quan hệ của Việt Nam với các nước
lớn. Nói cách khác, nếu không là thành viên ASEAN, quan hệ của Việt Nam
với các nước lớn khó có thể phát triển như thực tế đã diễn ra. Gia nhập ASEAN
cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng, góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế.
Trở thành thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam ngày càng tham
gia một cách chủ động, tích cực và đầy đủ vào mọi hoạt động của Hiệp hội. Qua
đó, Việt Nam có nhiều đóng góp đối với sự phát triển các lĩnh vực hợp tác chính
của ASEAN, góp phần tạo dựng nền tảng vững chắc để ASEAN đi đến quyết
định lịch sử là tăng cường liên kết, tiến tới xây dựng thành công Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015.
Vào thời điểm 15 năm của quá trình hội nhập ASEAN, với tư cách là một
thành viên có trách nhiệm của Hiệp hội, Việt Nam tiếp tục khẳng định ASEAN
là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với việc duy trì môi trường hòa bình, an ninh
và hợp tác phát triển ở khu vực. Một ASEAN liên kết chặt chẽ, đoàn kết và
thống nhất, có vai trò và vị thế quốc tế quan trọng, là hoàn toàn phù hợp với lợi
ích cơ bản và lâu dài của Việt Nam. Xét cả về hợp tác đa phương và quan hệ
song phương, ASEAN là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại
độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và láng giềng hữu nghị của Việt
Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, quá trình hơn một thập niên Việt
Nam gia nhập ASEAN cũng đặt ra những vấn đề bức xúc, với những khó khăn,
hạn chế rất cần thiết phải khắc phục, tháo gỡ. Quan hệ Việt Nam- ASEAN vẫn
còn những biểu hiện hạn chế về chất lượng, hiệu quả và chiều sâu, còn thiếu các
nhân tố cho sự phát triển vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế,
an ninh, chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường
hợp cụ thể hợp tác kinh tế - thương mại chưa theo kịp những tiến bộ đạt được
4
về chính trị, ngoại giao, chưa tạo được nhiều bước đột phá mới về chất, chưa
xây dựng được và khai thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau. Hợp
tác Việt Nam - ASEAN vẫn còn bị động đối phó với những vấn đề nhạy cảm và
mới nảy sinh, nhất là các vấn đề liên quan đến tranh chấp biên giới lãnh thổ, tài
nguyên thiên nhiên, khủng hoảng và suy thoái kinh tế, sự phối hợp hành động
trước các vấn đề khu vực và quốc tế, v.v...
Những khó khăn, hạn chế trong việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao
hiệu quả hợp tác trên nhiều mặt với ASEAN, nhất là việc tháo gỡ những vấn đề
nhạy cảm còn tồn đọng, đang và sẽ tác động không thuận chiều đối với môi
trường an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã hội trong nước và tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam, cũng như triển vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN.
Yêu cầu phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế đến năm 2020 đang đòi
hỏi Việt Nam cần có một chiến lược đối ngoại hoàn chỉnh, trong đó xác định rõ
những định hướng phát triển quan hệ với ASEAN. Từ đó sẽ cụ thể hóa thành
những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng,
tăng cường hợp tác Việt Nam - ASEAN trong tình hình mới. Để xây dựng một
chiến lược đối ngoại như vậy, thì việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện
và thấu đáo thực tiễn 15 năm Việt Nam gia nhập ASEAN (1995 - 2010) và triển
vọng quan hệ Việt Nam - ASEAN có vị trí, tầm quan trọng nổi bật trong khoa
học nghiên cứu các vấn đề quốc tế và chính sách đối ngoại ở nước ta hiện nay.
Từ những cách tiếp cận nêu cho thấy, việc nghiên cứu đề tài VIỆT NAM GIA
NHẬP ASEAN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY: THÀNH TỰU, VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ TRIỂN VỌNG
không chỉ có ý nghĩa cấp thiết về mặt lý luận và khoa học, mà còn mang tính
chính trị thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ là một
đóng góp vào việc cung cấp luận cứ khoa học cho xây dựng một chiến lược phát
triển quan hệ của Việt Nam với ASEAN thời kỳ hội nhập và phát triển. Đặc
biệt, đề tài càng trở nên cấp thiết hơn trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phục vụ việc bổ sung, phát triển Cương
lĩnh (1991) và xây dựng các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI, trong đó có
nội dung về quốc tế và chính sách đối ngoại.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong hơn 20 năm Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, những thành
tựu đối ngoại, hội nhập quốc tế thu được là hết sức ấn tượng, có sức thu hút lớn
đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Một trong những thành tựu đối
ngoại nổi bật của Việt Nam là sự phát triển quan hệ với các nước ASEAN, đặc
biệt tiến trình hội nhập năng động và ngày càng sâu rộng của Việt Nam với
5
ASEAN kể từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức này (7/1995).
Tuy nhiên, cho đến nay trong nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - ASEAN cả ở
trong cũng như ngoài nước còn ít các công trình chuyên sâu và tổng hợp, phân
tích và đánh giá một cách toàn diện các mặt của quá trình 15 năm Việt Nam gia
nhập ASEAN.
2.1. Ở ngoài nước:
Trước hết, cần khẳng định trong những năm qua, đã xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài về Việt Nam nói chung, trong đó
có một số đề cập đến hoạt động đối ngoại Việt Nam. Nhưng số các công trình
lấy quan hệ Việt Nam - ASEAN từ sau năm 1995 đến nay làm đối tượng nghiên
cứu chuyên sâu thì hầu như còn quá ít ỏi. Mặc dù vậy, trong khi đánh giá vai
trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như phân tích về đường lối,
chính sách đối ngoại của Việt Nam, một vài bài viết đã chỉ ra những đóng góp
của Việt Nam trong hợp tác, liên kết ASEAN. Trong số đó đáng chú ý là các
công trình sau:
- Vietnam's Foreign Relations: Dynamics of Change của tác giả Frank
Frost (Pacific Affairs, Vol. 67, No. 4/1995);
- Ideology and Foreign Policy: Vietnam's Marxist Leninist Doctrine and
Global Change, 1986-96 của Eeo Palmujoki (Institute of Southeast Asian
Studies, Singapore, 1999);
- Dosch, Jorn (2006), Vietnam's ASEAN Membership Revisited: Golden
Opportunity or Golden Cage?, Contemporary Southeast Asia, Journal of
International and Strategic Affairs, Volume 28, Number 2, August
- Việt Nam quan tâm đến việc xây dựng những cân bằng chiến lược mới,
của Madhur Singh (Hindustan Times, New Delhi, 20/6/2007);
- Vị thế Việt Nam tiếp tục được khẳng định trên trường quốc tế và khu
vực (Tổng thuật bài viết của các nhà nghiên cứu nước ngoài, Thông tin Những
vấn đề chính trị - xã hội, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, số 9-2007).
Các công trình kể trên, khi phân tích những bước điều chỉnh chính sách
đối ngoại của Việt Nam từ giữa thập niên 80 - đầu thập niên 90 của thế kỷ XX
đã khẳng định những thành tựu đối ngoại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời
cũng chỉ ra một số điểm thay đổi chủ yếu trong quan hệ của Việt Nam với các
nước ASEAN. Tuy vậy, các công trình này mới chỉ tiếp cận một số mặt trong
chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN, chưa có được cái nhìn tổng
thể, toàn diện. Do đó, những nhận định, đánh giá của họ còn biểu hiện phiến
6
diện, nhất là lại được nhìn qua lăng kính hệ tư tưởng và lợi ích quốc gia của cá
nhân các nhà nghiên cứu.
Trong số các công trình liên quan đến đề tài ở ngoài nước, đáng chú ý hơn
cả là sự xuất hiện các bài viết và tác phẩm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc
bàn về chính sách đối ngoại Việt Nam như: Thử bàn chiến lược ngoại giao và
chính sách ngoại giao của Việt Nam sau Chiến tranh lạnh của tác giả Trịnh Thuý
Anh (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/2001); Bàn về mở cửa đối ngoại và
chính sách ngoại giao của Việt Nam của Lưu Man Na - Triệu Thụ Hải (Học báo
Học viện Dân tộc Tây Nam, số 5/1997); Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Việt Nam từ khi đổi mới của Vương Quốc Bình (T/c Nghiên cứu Đông Nam Á,
số 1/2006); Ngoại giao Việt Nam từ “nhất biên đảo” đến “đi cân bằng” của
Hoàng Thắng Vĩ (T/c Tri thức thế giới, số 11/2001), v.v... Các công trình này
đánh giá cao hiệu quả hoạt động đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong
đó cũng chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong quan hệ Việt Nam - ASEAN.
Tuy còn khá mờ nhạt, nhưng quan hệ Việt Nam - ASEAN cũng được giới
học giả nước ngoài đề cập trong một số công trình nghiên cứu chung về
ASEAN như: Đông Nam Á- Chặng đường dài phía trước (Lim Chong Yah,
Nxb Thế giới, HN 2002); ASEAN - Tri dexatiletia vnhesnhây politiki (1967-
1997) (N.P Malentin, MIMO, 1999); A New ASEAN in the New Millennium
(Simon Tay, Jusus Estanislao, Hadi Soesastro, Centre for Strategic and
International Studies, Singapore.2001); ASEAN Beyond the Regional Crisis:
Challenges and Initiatives (Mya Than, ISEAS. 2001; Free Trade Agreement in
Southeast Asia (Rahui Sen, ISEAS 2004); Roadmap to an ASEAN Economic
Comunity (Denis Hew, ISEAS 2005); ASEAN Economic Co-operation (Linda
Low, ISEAS 2005); ASEAN and Regionalism (Rodolfo Severino, ISEAS.
2005);... Các tác giả nêu trên, khi phân tích về tiến trình liên kết ASEAN đã có
cách nhìn khá khách quan đối với sự tham gia của Việt Nam, đồng thời nhấn
mạnh những khó khăn mà Việt Nam cũng như các nước thành viên mới khác
của ASEAN phải đối mặt khi triển khai các chương trình hợp tác, liên kết kinh
tế của Hiệp hội do sự chênh lệch về trình độ phát triển.
2.2. Những nghiên cứu trong nước:
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các hoạt động
đối ngoại và hội nhập quốc tế, thì ở nước ta cũng diễn ra một sự “bùng nổ” rất
đáng khích lệ của công tác nghiên cứu về quốc tế và quan hệ đối ngoại. Các nhà
nghiên cứu trong nước không chỉ ngày càng quan tâ