Vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam

Vốn đầu tư mạo hiểm là những khoản đầu tư cổ phần vào giai đoạn đầu của những doanh nghiệp mới khởi sự, các doanh nghiệp này đang cần vốn để tài trợ cho việc phát triển sản phẩm mới hoặc ý tưởng về khoa học công nghệ, do vậy đây là những khoản đầu tư hứa hẹn một tiềm năng tăng trưởng rất lớn để bù đắp cho mức độ rủi ro cao hơn. Các chuyên gia quản lý vốn ĐTMH sẽ tìm kiếm các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Sở dĩ gọi là "nguồn vốn mạo hiểm" bởi vì: Các công ty được đầu tư không cần một khoản đặt cọc hay kí quỹ nào. Việc rót vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa vào sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành công doanh nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc công ty. Các quỹ đầu tư tham gia vào việc kiểm soát và điều hành công ty. Họ tư vấn ở cấp chiến lược, hướng dẫn, hỗ trợ các công ty trong quản lý, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường.Vì vậy họ có thể gặp rủi ro, bị mất khoản đầu tư nếu công ty bị phá sản. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra và họ thường đạt tỷ suất lợi nhuận từ 35- 50%. Vốn ĐTMH được huy động thông qua các quỹ ĐTMH và trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công ty quản lý quỹ để đầu tư vào các doanh nghiệp, dự án khả thi.

doc18 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2779 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vốn đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Vốn đầu tư mạo hiểm Khái niệm Vốn đầu tư mạo hiểm là những khoản đầu tư cổ phần vào giai đoạn đầu của những doanh nghiệp mới khởi sự, các doanh nghiệp này đang cần vốn để tài trợ cho việc phát triển sản phẩm mới hoặc ý tưởng về khoa học công nghệ, do vậy đây là những khoản đầu tư hứa hẹn một tiềm năng tăng trưởng rất lớn để bù đắp cho mức độ rủi ro cao hơn. Các chuyên gia quản lý vốn ĐTMH sẽ tìm kiếm các khoản thu nhập vốn tiềm năng cao hơn. Sở dĩ gọi là "nguồn vốn mạo hiểm" bởi vì: Các công ty được đầu tư không cần một khoản đặt cọc hay kí quỹ nào. Việc rót vốn của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa vào sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành công doanh nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc công ty. Các quỹ đầu tư tham gia vào việc kiểm soát và điều hành công ty. Họ tư vấn ở cấp chiến lược, hướng dẫn, hỗ trợ các công ty trong quản lý, xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường...Vì vậy họ có thể gặp rủi ro, bị mất khoản đầu tư nếu công ty bị phá sản. Tuy nhiên, điều này ít xảy ra và họ thường đạt tỷ suất lợi nhuận từ 35- 50%. Vốn ĐTMH được huy động thông qua các quỹ ĐTMH và trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các công ty quản lý quỹ để đầu tư vào các doanh nghiệp, dự án khả thi. Vai trò Khuyến khích sự phát triển của khoa học công nghệ Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế: Việc ra đời của vốn ĐTMH đã mở ra một cơ hội mới cho những người muốn “làm giàu” từ ý tưởng sáng tạo, người ta có động lực để kinh doanh nhiều hơn, sáng tạo nhiều hơn và giá trị mang đến cho xã hội cũng được tăng lên Ổn định và phát triển thị trường tài chính: Bổ sung thêm một kênh tài trợ vốn mới Tạo thêm hàng hóa cho thị trường chứng khoán Tác dụng ổn định thị trường tài chính của quỹ còn thể hiện ở vai trò chia sẻ áp lực vay vốn đối với hệ thống ngân hàng Hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp Các quỹ đầu tư mạo hiểm ngoài việc cung cấp vốn còn là sự hỗ trợ phi tài chính hiệu quả cho các doanh nghiệp như là chiến lược kinh doanh, marketing, khách hàng, đối tác tiềm năng,…. Quỹ đầu tư mạo hiểm Khái niệm Quỹ đầu tư mạo hiểm là một định chế trung gian chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp mới khởi sự nhằm mong đợi một sự gia tăng thu nhập cao hơn mức bình quân để bù đắp cho rủi ro của khoản đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn mức bình quân. Các quỹ đầu tư mạo hiểm thường nhắm vào giai đoạn đầu của doanh nghiệp mới khởi sự. Doanh nghiệp ở giai đoạn này có mức độ rủi ro cao nhưng đồng thời cũng hứa hẹn một sự gia tăng giá trị khoản đầu tư trong tương lai ( nếu doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển tốt ). Và khi đó các quỹ đầu tư có thể thực hiện một cuộc thoát vốn bằng cách bán cổ phần trên thị trường chứng khoán hoặc bán toàn bộ cổ phần của mình cho đối tác khác. Do vậy, các quỹ ĐTMH không chỉ đầu tư vốn mà còn hỗ trợ cho doanh nghiệp về nhiều mặt: tư vấn tài chính, marketing, hoạch định kế hoạch kinh doanh,…nhằm đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển, nâng cao giá trị doanh nghiệp. Các thành phần của quỹ đầu tư mạo hiểm Các nhà đầu tư mạo hiểm: là các cá nhân, tổ chức có lượng tiền nhàn rỗi lớn, sẵn sàng đầu tư và chấp nhận rủi ro để hi vọng đạt được khoản lợi nhuận cao như mong muốn trong tương lai. Các nhà quản lý quỹ: họ chính là những người quản lý quỹ ĐTMH, tiến hành đầu tư mạo hiểm chuyên nghiệp, vừa có kiến thức về công nghệ vừa có tài năng quản trị, họ hoạt động vốn từ các nhà ĐTMH, họ tìm kiếm và đánh giá các cơ hội đầu tư, thực hiện công cuộc thoát vốn để thu hồi vốn và lợi nhuận cho quỹ. Các doanh nghiệp: chủ yếu là các doanh nghiệp mới khởi sự, họ là những tổ chức, những cá nhân đang mong muốn biến một phát hiện công nghệ, một ý tưởng đọc đáo, mới mẻ thành một sản phẩm thành công trên thị trường nhưng do tiềm lực tài chính có hạn, họ cần có sự góp vốn của các quỹ ĐTMH. Đặc điểm Các khoản đầu tư có tiềm năng rất tăng trưởng cao nhưng rủi ro cũng rất lớn. Đây là một điểm đặc biệt tạo nên sự khác biệt với các nguồn tài trợ vốn khác vì thành công chủ yếu của các Quỹ ĐTMH dựa chủ yếu vào kỹ năng tìm kiếm những dự án đầu tư ban đầu tương đối nhỏ nhưng lại hàm chứa một tiềm năng tăng trưởng cao. Hỗ trợ phi tài chính cho các doanh nghiệp. Ngoài sự hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp các chuyên gia quản lý quỹ còn hỗ trợ cho doanh nghiệp những vấn đề khác như: quản lý, chính sách nhân sự, marketing, phát triển sản phẩm,..Với vị trí cũng như những kinh nghiệm thu được từ các doanh nghiệp khác, quỹ ĐTMH có thể tác động sâu sắc đến sự phát triển của doanh nghiệp mà họ đầu tư. Quỹ đầu tư mạo hiểm là một quỹ đầu tư tư nhân. Vì đầu tư mạo hiểm có mức độ rủi ro rất cao nên các quỹ thành viên không phù hợp với việc huy động vốn từ công chúng. Quy mô và phạm vi huy động vốn của quỹ chỉ tập trung vào một số ít các nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và có khả năng chấp nhận những rủi ro cao trong đầu tư. Cấu trúc hoạt động hai lớp. Nhà đầu tư cung cấp tài chính, còn các công ty quản lý quỹ (được thuê) sẽ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động đầu tư và rút vốn. Lợi tức dành cho các nhà quản lý quỹ. Số lượng dự án nhiều. Phần lớn là đầu tư gián tiếp. Có sẵn lối thoát vốn: Thị trường chứng khoán cung cấp một lối thoát “tự nhiên” cho các nhà đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, việc tạo ra nhiều kênh thoát vốn khác nhau như hợp nhất, bán lại công ty đang quản lý hoặc chuyển quyền sở hữu công ty cũng là vấn đề quan trọng. Phân loại 2.4.1 Nếu xét về cơ cấu tổ chức thì có các hình thức tổ chức của một quỹ đầu tư mạo hiểm: Mô hình hợp danh hữu hạn Tổ chức theo mô hình hợp danh hữu hạn (limited partnership) cho đến nay được xem là ưu việt hơn trong việc tạo ra một cơ chế phân chia trách nhiệm và quyền lợi hợp lý, hiệu quả. Trong hình thức tổ chức này có hai loại thành viên: thành viên tổng quát (general partners) và thành viên hợp danh hữu hạn (limited partners). - Các thành viên tổng quát : Họ là những người lập ra và quản lý vốn đầu tư mạo hiểm chuyên nghiệp, họ có chức năng tổ chức, kêu gọi vốn từ các nhà đầu tư mạo hiểm, tìm kiếm và lựa chọn các cơ hội đầu tư tốt nhất, sau đó tiến hành đầu tư, quản trị dự án. Việc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp đòi hỏi các thành viên tổng quát phải tốn nhiều thời gian, công sức để theo dõi, giám sát, tư vấn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhận đầu tư. Trong quá trình quản lý quỹ, các thành viên tổng quát sẽ nhận một khoản phí quản lý (lương) và một tỉ lệ nhất định từ tổng số lợi nhuận thu được sau khi thực hiện công cuộc thoát vốn để đổi lại những đóng góp của họ cho quỹ. Điều này đã tạo ra động lực mạnh mẽ để các thành viên tổng quát không ngừng nổ lực để tạo ra nhiều lợi nhuận hơn cho quỹ. - Những thành viên hợp danh hữu hạn : Họ là những nhà đầu tư mạo hiểm, họ góp vốn vào quỹ và được chia lợi nhuận (hoặc chịu rủi ro), họ không có bất cứ vai trò gì trong các quyết định đầu tư của quỹ. Các thành viên hợp danh hữu hạn thường là các tập đoàn công nghiệp hoặc là các tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí,… Với hình thức này, các doanh nghiệp được đầu tư không những nhận được sự hỗ trợ về vốn mà còn nhận được sự hỗ trợ về các mặt quản lý, hoạt động điều hành,… Mô hình công ty con: Ngoài hình thức hợp danh hữu hạn, còn có một hình thức tổ chức khác của quỹ đầu tư mạo hiểm, đó là hình thức quỹ là công ty con của các tập đoàn công nghiệp hay các tổ chức tài chính lớn (mô hình này là nét đặc trưng của các quỹ đầu tư mạo hiểm ở Nhật). Trong hình thức này, công ty mẹ thực hiện tài trợ vốn đầu tư mạo hiểm cho doanh nghiệp là nhằm tạo mối quan hệ với những doanh nghiệp mới để cung cấp những dịch vụ khác hoặc hi vọng vào những khoản lợi nhuận trong tương lai. Mô hình tín thác (dạng hợp đồng): Trong mô hình này quỹ đầu tư mạo hiểm không có tư cách pháp nhân nhân mà chỉ là một lượng tiền nhất định do các nhà đầu tư đóng góp. Mô hình này thể hiện rõ ở vai trò của ba bên tham gia vào hoạt động của quỹ: công ty quản lý quỹ ngân hàng giám sát và các nhà đầu tư. 2.4.2 Nếu dựa vào nguồn huy động vốn: Quỹ hải ngoại: Nguồn vốn huy động vào quỹ 100% là nguồn vốn nước ngoài, công ty quản lý quỹ được đăng ký thành lập ở nước ngoài và quỹ được quản lý bởi các chuyên gia quản lý vốn quốc tế. Các quỹ sẽ tìm kiếm cơ hội và đầu tư vào các dự án trong nước để thu lợi nhuận. Cổ phiếu của quỹ được niêm yết ở thị trường nước ngoài. Quỹ nội địa: Yếu tố then chốt của quỹ nội địa là sẽ huy động vốn trong nước để đầu tư vào các công ty trong nước, công ty quản lý quỹ đăng ký thành lập trong nước và những quỹ này sẽ do các chuyên gia trong nước quản lý là chính. Cổ phiếu của quỹ được niêm yết ở thị trường trong nước. 2.4.3 Nếu dựa vào cách thức huy động: Chúng ta có thể chia thành 2 loại là quỹ đầu tư dạng đóng và quỹ đầu tư dạng mở. Quỹ đầu tư dạng đóng: Quỹ chỉ phát hành cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư ra công chúng tại những thời điểm định sẵn với số lượng nhất định và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Quỹ đầu tư dạng mở Quỹ liên tục phát hành cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư ra công chúng và thực hiện mua lại cổ phiếu, chứng chỉ đầu tư có nhu cầu thu hồi vốn Qui trình hoạt động Một dự án đầu tư mạo hiểm thông thường kéo dài từ 7 đến 10 năm, được thực hiện qua ba bước: bắt đầu từ việc xem xét, thẩm định dự án, tới thực hiên việc đầu tư, rót vốn và kết thúc là việc thu hồi vốn. Bước 1: Xem xét và thẩm định các dự án đầu tư. Các quỹ đầu tư sẽ tiến hành nhiệm vụ xem xét và thẩm định dự án đầu tư rất kỹ trước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Đó là thẩm định tỉ lệ rủi ro, vốn rút để tái đầu tư, mức độ lợi nhuận… Trên thực tế ở Việt Nam, các quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận tỉ lệ rủi ro thấp nên thường tìm đến với các doanh nghiệp đã có tên tuổi và uy tín trên thị trường. Bước 2: Thực hiện đầu tư, rót vốn. Sau khi ký hợp đồng hợp tác, các quỹ đầu tư mạo hiểm tiến hành đầu tư, rót vốn vào doanh nghiệp. Quá trình rót vốn chia làm 5 giai đoạn, 3 giai đoạn đầu có mức độ rủi ro cao hơn 2 giai đoạn sau. Không chỉ rót vốn, quỹ còn hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh như xây dựng năng lực, mở thị trường, tạo thương hiệu… 5 giai đoạn rót vốn: - Tài trợ vốn mồi/ươm tạo (seed financing): Giúp doanh nghiệp để phát triển ý tưởng sáng tạo. - Tài trợ khởi động (start-up financing): Giúp phát triển sản phẩm và hoạt động tiếp thị khởi đầu. - Tài trợ giai đoạn đầu (first stage financing): Giúp doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và tung ra thị trường. - Tài trợ mở rộng sản xuất (expansion financing): Giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thị trường, nâng cấp sản phẩm, xây dựng cơ cấu sở hữu hợp lý… - Tài trợ tăng tốc: Giúp doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường, tăng tốc hoạt động kinh doanh, tạo sản phẩm mới… Bước 3: Kết thúc đầu tư, hay thu hồi vốn ( giai đoạn thoát vốn) Các khoản đầu tư được thu hồi qua 4 kênh chính: - Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng – IPO (Initial Public Offerings). - Bán toàn bộ doanh nghiệp: là việc bán hoặc sáp nhập 1 công ty cho một công ty khác lớn hơn hoặc bán công ty cho một cá nhân, tổ chức nào đó. - Nhượng lại cổ phiếu cho doanh nghiệp nhận đầu tư. - Bán số cổ phiếu đã đầu tư cho 1 cá nhân, hoặc tổ chức nào đó. Kết quả thu được qua việc thoát vốn của nhà đầu tư có thể được thể hiện bằng tiền mặt hoặc các cổ phiếu có khả năng thanh khoản cao trên thị trường vốn. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM Điều kiện thuận lợi để vốn đầu tư mạo hiểm phát triển ở VN Việt Nam có ưu thế về môi trường đầu tư, được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định. Việt Nam là một thị trường mới, rất có nhiều tiềm năng để khai thác một tỉ suất sinh lợi cao, đặc biệt là cho các nhà đầu tư mạo hiểm. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã trở thành điểm đến của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài bởi những chính sách mở của thông thoáng hơn, từng bước cải thiện môi trường pháp lý, môi trường đầu tư và các doanh nghiệp trong nước ngày càng năng động hơn. Thực hiện chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, số lượng doanh nghiệp gia tăng mạnh mẽ trong thời gian qua, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã mở ra rất nhiều cơ hội cho các quỹ đầu tư lựa chọn Thống kê số lượng doanh nghiệp Việt Nam từ 2000 đến 2007. Năm  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007   Số lượng DN  42.288  51.680  62.908  72.012  91.755  113.352  180.000  245.000   Nguồn:www.pso.hochiminhcity.gov.vn Việt Nam là quốc gia có chế độ chính trị ổn định, có chủ trương chính sách đầu tư và phát triển kinh tế nhất quán theo quan điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, có nguồn nhân công giá rẻ cũng như yếu tố giá thành trong sản xuất và nghiên cứu thấp nên sẽ giảm được chi phí hoạt động. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, hiện có một lực lượng các chuyên gia, các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài. Đây là một lực lượng hùng hậu, có trình độ đã và đang làm việc trong lĩnh vực công nghệ cao trên thế giới, họ có mong muốn được tham gia xây dựng và chuyển giao công nghệ về Việt Nam, được tham gia làm việc và đóng góp sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của công nghệ Việt Nam. Sự phát triển và từng bước hoàn thiện để TTCK phát triển bền vững trong thời gian vừa qua là những dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế. Các giai đoạn hoạt động của vốn ĐTMH Giai đoạn từ 1991 đến 2002: Đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của một số quỹ ĐTMH vào thị trường Việt Nam, nhưng sau đó hầu hết các quỹ này đã rút khỏi Việt Nam do hoạt động không hiệu quả. Tình hình sử dụng vốn của các quỹ ĐTMH cuối năm 1999 Stt  Tên quỹ  Vốn(USD)  Vốn USD %   1  Vietnam Fund  54.380.000  41.040.396  75.47   2  Beta Vietnam Fund  52.200.000  34.446.000  65.99   3  Beta Mekong Fund  17.900.0 00  4.222.000  23.59   4  Dragon Capital  27.000.000  23.733.000  87.78   5  Vietnam Frontier Fund  53.100.100  37.300.000  70.24   6  Lazard Vietnam Fund  59.000.000  10.000.000  19.95   7  Templeton Vietnam Fund  110.000.000  22.000.000  20.00    Tổng cộng  373.580.000  172.708.396  46.23   Nguồn :The VietNam Bussiness Journal. Giai đoạn từ 2002 đến 2006: Có những dấu hiệu tích cực từ nền kinh tế, thị trường chứng khoán từng bước phát triển, cơ hội đầu tư ở Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn và đã có sự xuất hiện trở lại của các quỹ ĐTMH với qui mô vốn lớn hơn đầu tư vào thị trường Việt Nam. - Ngày 22/04/2002 với sự ra đời của MeKong Enterprise Fund (MEF)-Do MeKong Capital quản lý với tổng số vốn đầu tư 18.5 triệu USD đã đánh dấu sự phục hồi của thị trường vốn mạo hiểm tại thị trường Việt Nam. Các nhà đầu tư của quỹ bao gồm: Ngân hàng phát triển Châu Á(ADB), Quỹ Phát Triển Bắc Âu (NDF), Văn phòng vụ kinh tế Thụy Sĩ (SECO), quỹ hợp tác công nghiệp Phần Lan, (Finnfund), công ty đầu tư vào các nước đang phát triển của Bỉ(BIO),… Đây là quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng ở khu vực sông MeKong gồm: Việt Nam, Lào và Capuchia, quỹ chủ yếu tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là quỹ sẽ ưu tiên đầu tư vào những công ty xuất khẩu tận dụng được lợi thế cạnh tranh của vùng. Vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam từ 2002 đến 2006. Năm  2002  2003  2004  2005  2006   Triệu USD  130  218  228  500  2300   Nguồn :Asia Venture capital Journal - Ngày 11/11/2003, Vina Capital –Công ty quản lý của Quỹ đầu tư tư nhân Vietnam Opportunity Fund(VFF) đã chính thức đi vào hoạt động tại thị trường Việt Nam. Số vốn ban đầu của quỹ là 10 triệu USD, dự kiến sẽ tăng lên 50 triệu USD trong vòng 3 năm tiếp theo và được thành lập bởi các thành viên: Milleniu, Partners (New York), Deustche Bank Securities, HongKong’a Sun Wah Group, Pacific Alliance Group. Đối tượng mà quỹ nhắm đến để đầu tư là các doanh nghiệp đang hoạt động kém hiệu quả, quỹ sẽ tham gia vào quá trình tái cơ cấu để nâng cao giá trị và phát triển doanh nghiệp sau đó tiến hành bán lại hoặc đưa ra niêm yết trên thị trường chứng khoán. - Ngày 28/08/2003 công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VietFund Management-VFM) ra đời, VFM có số vốn pháp định là 8 tỷ Đồng, trụ sở đặt tại TPHCM do các nhà đầu tư là ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đóng góp 70% vốn và Dragon capital đóng góp 30%. Ngoài nguồn vốn tự có, VFM sẽ huy động thêm nguồn vốn từ bên ngoài từ các tổ chức tài chính, các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước để tham gia đầu tư vào nền kinh tế, chủ yếu là thông qua thị trường chứng khoán. - Tháng 8/2004 quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Venture Vietnam đã chính thức đi vào hoạt động, trong giai đoạn đầu IDGVV sẽ tiến hành khảo sát nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam và sẽ tiến hành đầu tư 100triệu USD vào khoản 30-40 doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh tốt với mức dự tính như sau: 30% vốn cho ngành viễn thông và công nghệ không dây, 25% vốn cho công nghiệp phần mềm, 15% vốn cho ngành công nghệ sinh học và phần vốn còn lại (30%) cho các ngành khác. - Năm 2006, vốn đầu tư mạo hiểm có sự tăng trưởng đáng kể, từ 500triệu USD năm 2005 tăng lên 2.300triệu USD năm 2006. Và sự xuất hiện của quỹ Vietnam Holding có số vốn 112 triệu USD cũng làm giới tài chính chú ý, 60% nguồn vốn của quỹ này được huy động từ các nhà đầu tư Thụy Sĩ. Tháng 09/2006 thủ tướng Đan Mạch đã cắt băng khánh thành khai trương quỹ đầu tư Private Equity New Markets (PENM) được quản lý bởi ngân hàng BankInvest Đan Mạch – quản lý khối tài sản 23tỷ USD, trong đó dành 3tỷ USD đầu tư vào các nước đang phát triển. Ngoài ra, trong năm 2006 cũng xuất hiện một số quỹ đầu tư ở Việt Nam như: DWS Vietnam Fund của ngân hàng Deutsche Bank, BIDV-Vietnam Partners' Vietnam Investment Fund, Dragon Capital Management's Vietnam Growth Fund Limited , Korea Investment Trust Management's Vietnam Growth Fund, Golden Bridge Financial Group's Vina Blue Ocean Fund . Giai đoạn 2007 đến nay: Nhiều quỹ đầu tư nước ngoài xuất hiện tại Việt Nam, các quỹ này tập trung đầu tư theo những lĩnh vực khác nhau. Với sự xuất hiện của khá nhiều quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, từ Hàn Quốc có các quỹ: Korea WW CHN Viet MC EQ, MA Maps Oppo Viet & CHN, Tongyang Vietnam, KITM WW Vietnam Real Est; từ Singapore: DBS Indochina Fund, Lion Capital Vietnam Fund và Fullerton Vietnam Fund; từ Malaysia có quỹ: Hwang/DBS Indochina Fund; từ Anh có quỹ: Indochina Capital Vietnam, và từ Liechtenstein có quỹ T.I.M Vietnam Tiger Fund. Hiện tại số quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam khá nhiều khoảng 56 quỹ, và phân loại theo hình thức đầu tư như sau - Đầu tư chủ yếu vào cổ phần tư nhân: 3 quỹ. - Đầu tư công nghệ cao và đầu tư mạo hiểm: 3 quỹ. - Đầu tư vào bất động sản: 7 quỹ. - Đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần và các khoản đầu tư cơ hội: 43 quỹ. Như vậy, tuy có khá nhiều quỹ đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam nhưng quỹ mang tính chất đầu tư vốn mạo hiểm thì lại rất ít (3/56 quỹ). Một số quỹ đầu tư mạo hiểm tiêu biểu tại Việt Nam Mekong Capital Mekong Capital là một trong những quỹ đầu tư thành công tại thị trường Việt Nam, thành lập vào 04/2002 với số vốn ban đầu là 18.5 triệu USD hiện tại đã tăng lên 181 triệu USD. Hiện t
Luận văn liên quan