Xây dựng mạng MAN thếhệmới hiện đang được rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông trên thếgiới quan tâm xây dựng nhằm đáp ứng việc tiếp cận cung cấp đa loại hình
dịch vụtới người sửdụng. Tuy nhiên đểxây dựng được một mạng đáp ứng được những mục
tiêu ban đầu đềra thì cần phải cân nhắc, xem xét giải quyết rất nhiều vần đềkinh tếkỹthuật.
Bài báo này đềcập đến một sốxu hướng phát triển, đặc điểm chủyếu của các giải pháp công
nghệ, một sốchỉtiêu kỹthuật chủyếu cần phải xem xét khi lựa chọn giải pháp công nghệxây
dựng mạng MAN thếhệkếtiếp. Dựa trêncơsở đó các nhà đầu tưxây dựng mạng sẽcân nhắc
hiệu quảkinh tếkỹthuật của mỗi một giải pháp, từ đó lựa chọn giải pháp công nghệphù hợp.
8 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1922 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng mạng đô thị MAN: Một số vấn đề cần quan tâm cho việc lựa chọn giải pháp công nghệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG
XÂY DỰNG MẠNG ĐÔ THỊ MAN – MỘT SỐ VẦN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
CHO VIỆC LỰA CHỌN GIẢI PHÁP CÔNG NGHỆ
TS. Nguyễn Đức Thuỷ
Tóm tắt: Xây dựng mạng MAN thế hệ mới hiện đang được rất nhiều nhà cung cấp dịch vụ
viễn thông trên thế giới quan tâm xây dựng nhằm đáp ứng việc tiếp cận cung cấp đa loại hình
dịch vụ tới người sử dụng. Tuy nhiên để xây dựng được một mạng đáp ứng được những mục
tiêu ban đầu đề ra thì cần phải cân nhắc, xem xét giải quyết rất nhiều vần đề kinh tế kỹ thuật.
Bài báo này đề cập đến một số xu hướng phát triển, đặc điểm chủ yếu của các giải pháp công
nghệ, một số chỉ tiêu kỹ thuật chủ yếu cần phải xem xét khi lựa chọn giải pháp công nghệ xây
dựng mạng MAN thế hệ kế tiếp. Dựa trên cơ sở đó các nhà đầu tư xây dựng mạng sẽ cân nhắc
hiệu quả kinh tế kỹ thuật của mỗi một giải pháp, từ đó lựa chọn giải pháp công nghệ phù hợp.
1. Giới thiệu
Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh về kinh tế, xã hội và văn hoá trong môi trường
các đô thị và thành phố lớn nên nhu cầu trao đổi thông tin là rất lớn, đa dạng cả về về loại
hình dịch vụ tốc độ. Với sự hình thành và phát triển bùng nổ các tổ hợp văn phòng, khu công
nghiệp, công nghệ cao, các khu chung cư ... thêm vào đó các dự án phát triển thông tin của
chính phủ, của các cơ quan, các công ty làm cho nhu cầu trao đổi thông tin như trao đổi tiêng
nói, dữ liệu, hình ảnh, truy nhập từ xa, truy nhập băng rộng... tăng dẫn đến những vấn đề cần
phải giải quyết.
Các mạng nội bộ LAN (Local Area Network) chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi thông
tin với phạm vi địa lý rất hẹp (trong khoảng vài trăm mét). Trong khi đó nhu cầu kết với mạng
bên ngoài (truy nhập Internet, truy nhập cơ sở dữ liệu, kết nối chi nhánh văn phòng....) là rất
lớn. Điều này dẫn đến việc cơ sở hạ tầng thông tin hiện tại với công nghệ TDM (chuyển mạch
kênh PSTN, công nghệ SDH) sẽ rất khó đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin rất lớn như vậy cả
về loại hình dịch vụ và cường độ lưu lượng trao đổi thông tin. Do vậy việc tìm kiếm công
nghệ để xây dựng một cơ sở hạ tầng mạng đô thị (MAN) đáp ứng được yêu cầu trao đổi thông
tin nói trên là công việc cấp thiết đối với những nhà cung cấp dịch vụ viễn thông trên thế giới
nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
2. Xu hướng phát triển công nghệ mạng MAN
Trong vài năm trở lại đây các nhà khai thác mạng viễn thông có khuynh hướng tập trung đầu
tư xây dựng mạng đường trục (backbone) để đáp ứng yêu cầu băng thông truyền tải cho lưu
lượng bùng nổ của Internet. Hiện nay khuynh hướng phát triển mạng đã có sự thay đổi, người
ta tập trung sự chú ý đến việc xây dựng mạng nội vùng, nội hạt nói chung và mạng MAN tại
các đô thị, thành phố nói riêng, nơi cần thiết phải đầu tư xây dựng, tổ chức lại để có thể đáp
ứng được nhu cầu đa dạng hoá dịch vụ của người sử dụng, đưa dịch vụ đến gần với khách
hàng hơn, đảm bảo việc kết nối với khách hàng “mọi nơi, mọi lúc, mọi giao diện”. Hình 1 cho
ta một cái nhìn tổng quan nhất về cấu trúc phân lớp xét trên quan điểm về cung cấp dịch vụ
[5]. Cấu trúc này chỉ mang tính logic nó phụ thuộc vào kích cỡ mạng và độ phức tạp của
mạng cụ thể. Theo cấu trúc phân lớp này, mạng MAN được chia làm 2 lớp, lớp truy nhập và
lớp mạng lõi. Lớp truy nhập thực hiện chức năng tích hợp các loại hình dịch vụ bao gồm cả
dịch vụ từ người sử dụng và dịch vụ mạng. Lớp mạng lõi thực hiện chức năng truyền tải lưu
lượng tích hợp trong mạng đô thị một cách hợp lý; lớp này thực hiện chức năng định tuyến
truyền tải lưu lượng trong nội vùng đô thị hoặc chuyển giao lưu lượng với mạng trục
(backbone).
Không giống như mạng đường trục, nơi có khuynh hướng hội tụ các loại hình lưu lượng
truyền tải về loại hình giao thức truyền tải phổ biến nhất là IP/MPLS nhằm đạt được hiệu suất
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỘI NGHỊ KHOA HỌC LẦN THƯ VI
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG
sử dụng mạng cao, mạng đô thị thực hiện tiếp cận với rất nhiều loại hình ứng dụng và giao
thức giao thức truyền tải cần phải truyền một cách “trong suốt” giữa người sử dụng hoặc các
mạng văn phòng với nhau. Do vậy vấn đề đặt ra là cần phải cân nhắc giữa mục tiêu là truyền
lưu lượng trong suốt và đạt hiệu suất sử dụng mạng cao, đó là một bài toán đặt ra đối với các
nhà xây dựng mạng đô thị. Nó sẽ quyết định đến chiến lược triển khai mạng và dịch vụ cũng
như như việc lựa chọn nhà cung cấp thiết bị mạng.
Truy nhËp
(Access)
TÝnh mÒm dÎo cña dÞch vô
(Service Flexibility)
Leased Lines
Video TLS
Data
SDH SAN
ASP/ASP
TËp c¸c dÞch vô
(Collection of
Services)
M¹ng lâi)
(Core)
M¹ng ®« thÞ
MAN
TÝch hîp
c¸c dÞch vô
M¹ng lâi MAN
(Metro Core)
M¹ng truy nhËp
MAN
(Metro Access)
M¹ng truyÒn t¶i
®uêng trôc
ASP: Nhµ cung cÊp øng dông (Application Service Provider)
SAN: M¹ng luu tr÷ d÷ liÖu vïng (Stogage Area Network)
TLS: DÞch vô LAN trong suèt (Transparent LAN Service)
ISP: Nhµ cung cÊp dÞch vô (Internet Internet Service Provide)
Xxu hướng phát triển của mạng của thế hệ kế tiếp NGN là từng bước thay thế hoặc chuyển
lưu lượng mạng sử dụng công nghệ TDM sang mạng sử dụng công nghệ chuyển mạch gói.
Do vậy, công nghệ áp dụng xây dựng mạng MAN cũng không nằm ngoài xu hướng nói trên,
đó là xây dựng cơ sở hạ tầng mạng với mục tiêu hội tụ các loại hình dịch vụ dữ liệu, tiếng nói,
truyền hình để truyền tải trên cùng một cơ sở hạ tầng mạng. Hiện nay một số công nghệ chủ
yếu ở phân lớp 2 như là GbE (Gigabit Ethenet), RPR (Resilient Packet Ring), SDH-NG(Next
Generation SDH) được xem là có triển vọng áp dụng để xây dựng mạng MAN thế hệ kế tiếp.
2.1. Gigabit Ethenet
Công nghệ Ethernet đã được xây dựng và chuẩn hoá để thực hiện các chức năng mạng lớp
đường dữ liệu và lớp vật lý. Công nghệ này hỗ trợ cung cấp rất tốt các dịch vụ kết nối điểm -
điểm với cấu trúc tô-pô mạng phổ biến theo kiểu ring và Hub-lan hoa (hub-and-spoke). Với
cấu hình Hub-lan hoa, trong các mạng cơ quan, khu văn phòng thường triển khai các nút
mạng là các thiết bị Switch và các thiết bị Hub. Nút mạng đóng vai trò là cổng (gateway) kết
nối kép (dual home) với nút mạng thực hiện chức năng POP (Point Of Present) của nhà cung
cấp dịch vụ để tạo nên cấu trúc mạng nan hoa. Cách tổ chức mạng này xét về khía cạnh kinh
tế là tương đối đắt, bù lại mạng có độ duy trì mạng cao và có khả năng mở rộng, nâng cấp
dung lượng.
Mạng tổ chức theo cấu trúc tô-pô ring được áp dụng nhiều vì có tính hiệu quả về mặt tiết kiệm
chi phí đầu tư xây dựng mạng ban đầu. Tuy nhiên, một trong những yếu điểm của cấu trúc
mạng kiểu này là không hiệu quả khi triển khai thuật toán định tuyến phân đoạn hình cây
(spanning-tree-algorithm); là một trong những thuật toán định tuyến quan trọng áp dụng trong
mạng Ethernet do những hạn chế của cơ chế bảo vệ và dung lượng băng thông hữu hạn của
vòng ring. Cụ thể là thuật toán định tuyến phân đoạn hình cây trong nhiều trường hợp sẽ thực
hiện chặn một vài phân đoạn tuyến trong ring, điều này sẽ làm giảm dung lượng băng thông
làm việc của vòng ring. Một điểm nữa là thuật toán định tuyến phân đoạn hình cây có thời
gian hội tụ dài hơn nhiều so với thời gian hồi phục đối với cơ chế bảo vệ của vòng ring (tiêu
chuẩn là 50 ms).
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỘI NGHỊ KHOA HỌC LẦN THƯ VI
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG
Gigabit Ethernet là bước phát triển tiếp theo của công nghệ Ethernet, một công nghệ mạng đã
được áp dụng phổ biến cho mạng cục bộ LAN (Local Area Network) hơn hai thập kỷ qua.
Ngoài đặc điểm công nghệ Ethernet truyền thống, công nghệ Gigabit Ethernet phát triển và bổ
sung rất nhiều các chức năng và các tiện ích mới nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng về loại hình
dịch vụ, tốc độ truyền tải, phương tiện truyền dẫn. Hiện tại các giao thức Gigabit Ethernet đã
được chuẩn hoá trong các tiêu chuẩn IEEE 802.3z, 802.3ae, 802.1w. Gigabit Ethernet cung
cấp các kết nối có tốc độ 100 Mbít/s, 1Gbít/s hoặc vài chục Gbít/s và hỗ trợ rất nhiều các tiện
ích truyền dẫn vật lý khác nhau như cáp đồng, cáp quang với phương thức truyền tải đơn công
(half-duplex) hoặc song công (full-duplex). Công nghệ Gigabit Ethernet hỗ trợ triển khai
nhiều loại hình dịch vụ khác nhau cho nhu cầu kết nối kết nối điểm - điểm, điểm - đa điểm,
kết nối đa điểm... điển hình là các dịch vụ đường kết nối Ethernet ELS (Ethernet Line
Service), dịch vụ chuyển tiếp Ethernet ERS (Ethernet Relay Service), dịch vụ kết nối đa điểm
Ethernet EMS (Ethernet Multipoint Service). Một trong những ứng dụng quan trọng tập hợp
chức năng của nhiều loại hình dịch vụ kết nối là dịch vụ mạng LAN ảo VLAN (virtual LAN),
dịch vụ này cho phép các cơ quan, doanh nghiệp, các tổ chức kết nối mạng từ ở các phạm vi
địa lý tách rời thành một mạng thống nhất [1].
2.2. Công nghệ ring gói phục hồi RPR (Resilient Packet Ring)
Ring gói phục hồi là một giao thức mới ở phân lớp MAC (Media Acces Control). Giao thức
này được áp dụng nhằm mục đích tối ưu hoá việc quản lý băng thông và hiệu quả cho việc
triển khai các dịch vụ truyền dữ liệu trên vòng ring. RPR hoạt động ở phía trên so với Gigabit
Ethernet và SDH và thực hiện cơ chế bảo vệ với giới hạn thời gian bảo vệ là 50 ms trên cơ sở
hai phương thức: phương thức steering và phương thức wrapping. Các nút mạng RPR trong
vòng ring có thể thu các gói tin được địa chỉ hoá gửi đến nút đó bởi chức năng DROP và chèn
các gói tin gửi từ nút vào trong vòng ring bởi chức năng ADD. Các gói tin không phải địa chỉ
của nút sẽ được chuyển qua. Một trong những chức năng quan trọng nữa của RPR là lưu
lượng trong vòng ring sẽ được truyền tải theo 3 mức ưu tiên là High, Medium, LOW tương
ứng với 3 mức chất lượng dịch vụ QoS (quanlity of service). Hiện tại giao thức RPR đã được
chuẩn hoá trong tiêu chuẩn IEEE 803.17 của Viện kỹ thuật Điện và Điện tử Hoa kỳ và đã có
rất nhiều hãng sản xuất thiết bị đã tung ra các sản phẩm RPR thương mại [4].
2.3. SDH thế hệ kế tiếp (SDH-NG)
Từ trước tới nay công nghệ truyền dẫn SDH được xây dựng chủ yếu cho việc tối ưu truyền tải
lưu lượng thoại. Theo những dự báo và phân tích về thị trường mạng viễn thông gần đây, các
doanh nghiệp có sẽ gia tăng mạnh mẽ các loại hình dịch vụ truyền dữ liệu và có xu hướng
chuyển dần lưu lượng của các dịch vụ thoại sang truyền tải theo các giao thức truyền dữ liệu
(ví dụ như dịch vụ thoại qua IP (VoIP).. Trong khi đó, các cơ sở hạ tầng mạng SDH hiện có
khó có khả năng đáp ứng nhu cầu truyền tải lưu lượng gia tăng trong tương lai gần. Do vậy
yêu cầu đặt ra là cần phải có một cơ sở hạ tầng truyền tải mới để có thể đồng thời truyền tải
trên nó lưu lượng của hệ thống SDH hiện có và lưu lượng của các loại hình dịch vụ mới khi
chúng được triển khai. Đó chính là lý do của việc hình thành một hướng mới của công nghệ
SDH, đó là SDH thế hệ kế tiếp SDH-NG [3].
Các công nghệ để tạo ra SDH-NG được tập hợp chung trong một khái niệm đó là khái niệm
truyền dữ liệu qua mạng SDH DoS (data over SDH). DoS là cơ cấu truyền tải lưu lượng cung
cấp một số chức năng và các giao diện nhằm mục đích tăng hiệu quả của việc truyền dữ liệu
qua mạng SDH. Mục tiêu quan trọng nhất mà các hướng công nghệ nói trên cần phải thực
hiện được đó là phối hợp hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện chức năng cài đặt/chỉ định băng thông
cho các dịch vụ một cách hiệu quả mà không ảnh hưởng tới lưu lượng đang được truyền qua
mạng SDH hiện tại. Điều này có nghĩa là mạng sẽ đảm bảo được chức năng hỗ trợ truyền tải
lưu lượng dịch vụ của mạng hiện có và triển khai các loại hình dịch vụ mới. Thêm vào đó,
SDH-NG cần cung cấp chức năng đảm bảo chất lượng dịch vụ QoS với mức độ chấp nhận
nào đó cho các loại hình dịch vụ mới; mềm dẻo và linh hoạt trong việc hỗ trợ truyền tải lưu
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỘI NGHỊ KHOA HỌC LẦN THƯ VI
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG
lượng truyền tải bởi các giao thức khác nhau qua mạng. Cơ cấu của DoS bao gồm 3 giao thức
chính: Thủ tục đóng khung tổng quát GFR (generic framing procedure), kỹ thuật liên kết
chuỗi ảo VC (virtual concatenation) và cơ cấu điều chỉnh dung lượng đường thông LCAS
(link capacity adjustment scheme). Cả 3 giao thức này đã được ITU-T chuẩn hoá lần lượt bởi
các tiêu chuẩn G.7041/Y.1303, G.704, G.7042/Y.1305. Giao thức GFP cung cấp thủ tục đóng
gói khung dữ liệu cho các dạng lưu lượng khác nhau (Ethernet, IP/PPP, RPR, kênh quang..)
vào các phương tiện truyền dẫn TDM như là SDH hoặc hệ thống truyền tải quang OTN
(optical transport network). Giao thức VC cung cấp những thủ tục cài đặt băng thông cho
kênh kết nối mềm dẻo hơn so với những thủ tục áp dụng trong hệ thống truyền dẫn TDM
trước đó. Giao thức LCAS cung cấp thủ tục báo hiệu đầu cuối tới đầu cuối để thực hiện chức
năng điều chỉnh động dung lượng băng thông cho các kết nối khi sử dụng VC trong kết nối
SDH.
3. Một số chỉ tiêu kỹ thuật cần phải quan tâm trong việc lựa chọn giải pháp công nghệ
xây dựng mạng MAN.
Một điều cần phải khẳng định rằng: Mạng MAN thế hệ mới được xây dựng là tổ hợp của các
công nghệ truyền dẫn, công nghệ chuyển mạch/định tuyến được lựa chọn. Do vậy chúng ta
chỉ có thể nói là lựa chọn giải pháp công nghệ xây dựng mạng MAN dựa trên tổ hợp công
nghệ truyền dẫn, chuyển mạch nào đó để đạt được những tiêu chí cụ thể đề ra trước khi xây
dựng mạng. Để xác định công nghệ nào được lựa chọn trước hết cần phải xác định được
những tiêu chí chủ yếu cho việc xây dựng mạng. Các tiêu chí chủ yếu đó là: Năng lực truyền
tải của mạng, giá thành của mạng, khả năng nâng cấp và mở rộng mạng [2]
3.1. Năng lực truyền tải của mạng
Năng lực truyền tải của mạng là một trong những chỉ tiêu quan trọng cần phải đạt được khi
xây dựng mạng. Năng lực truyền tải của mạng cấu thành bởi một số các yếu tố như là trễ
mạng, khả năng bảo vệ, thông lượng, hiệu suất băng thông, độ khả dụng của mạng.
3.1.1. Trễ mạng
Trễ mạng bao gồm các hiện tượng trễ do bảo vệ phục hồi (tính theo giá trị trung bình), trễ
truyền tải khi thông tin được truyền qua nhiều mạng thành phần (tính theo giá trị min, max).
Giải pháp mạng (bao gồm công nghệ được lựa chọn, cấu trúc tô pô mạng, kích cỡ mạng) cũng
như cường độ lưu lượng truyền tải trên mạng là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến trễ mạng.
Bảng 1 đưa ra các mức trễ của một số giải pháp công nghệ có thể áp dụng cho mạng MAN.
Gigabit Ethernet có thời gian trễ phục hồi ngắn nhưng trễ truyền tải lớn. Trong khi đó công
nghệ RPR cho giá trị trễ truyền tải nhỏ hơn so với công nghệ SDH-NG do áp dụng chức năng
chuyển gói (packet forwarding). Độ khả dụng cũng là một yếu tố cần phải đưa ra xem xét.
Hầu hết các giải pháp công nghệ đều có thể thực hiện mạng nhằm đạt được độ khả dụng “năm
số chín” (99,999%), nhưng bù lại chi phí xây dựng mạng có thể tăng rất nhiều. Một vấn đề đặt
ra là có cần thiết phải thực hiện mạng với độ khả dụng cao như vậy không? Phần lớn khách
hàng thường thoả mãn với mức độ khả dụng nhỏ, đặc biệt trong trường hợp giá của các loại
hình dịch vụ giảm đi đáng kể.Trong những trường hợp như vậy thì công nghệ Gigagbit
Ethernet có vẻ chiếm ưu thế vượt trội
Giải pháp công nghệ Trễ bảo vệ phục hồi Trễ truyền tải Độ khả dụng
GbE 1 s Lớn nhất 99,9% - 99,999 %
RPR over GbE 50 ms Nhỏ nhất 99,999 %
RPR over SDH-NG 50 ms Nhỏ nhất 99,999 %
SDH-NG 50 ms Trung bình 99,999 %
Bảng 1 : So sánh trễ mạng giữa các giải pháp công nghệ
3.1.2. Khả năng bảo vệ
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỘI NGHỊ KHOA HỌC LẦN THƯ VI
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG
Khả năng bảo vệ mạng xây dựng trên cơ sở công nghệ mạng nào đó phụ thuộc vào cấu trúc tô
pô mạng được áp dụng. Công nghệ RPR và SDH-NG với cấu hìng ring cung cấp chức năng
bảo vệ mạng rất hiệu quả, nhưng không phù hợp với các cấu trúc tô pô mạng kiểu khác.Trong
khi đó mạng xây dựng trên công nghệ Gigabit Ethernet lại cung cấp cơ cấu bảo vệ rất hiệu
quả với cấu hình lưới – lan hoa nhưng không phù hợp với cấu hình ring. Bảng 2 đưa ra so
sánh về hiệu quả bảo vệ đối với một số giải pháp công nghệ công nghệ áp dụng cho mạng
MAN.
Giải pháp công nghệ Khả năng bảo vệ
GbE Hub – and – Spoke Rất tốt, chi phí cao
GbE ring Không tốt lắm, chi phí thấp
RPR over GbE Tốt, chi phí rất cao
RPR over SDH-NG Tốt, chi phí hơi cao
SDH-NG Tốt, chi phí hơi cao
Bảng 2. So sánh khả năng bảo vệ và chi phí cho xây dựng cơ cấu bảo vệ
Khả năng bảo vệ không hiệu quả đối với công nghệ Gigabit Ethernet áp dụng cho cấu hình
ring xuất phát từ vấn đề công nghệ này áp dụng thuật toán định tuyến phân đoạn hình cây áp
dụng phù hợp cho cấu trúc lưới. SDH-NG cung cấp chức năng bảo vệ tương tự như công nghệ
SDH truyền thống. Tuy nhiên có một điểm khác là các chuỗi kênh ảo cho phép định tuyến độc
lập đối các VC riêng rẽ, điều này cho phép cải thiện khả năng phục hồi của công nghệ này.
Chức năng bảo vệ của RPR thực hiện trên cơ sở 2 phương pháp: WRAPING và STEERING,
hoạt động giống như cơ chế bảo vệ ring SDH 1 sợi và ring SDH 2 sợi.
3.1.3. Thông lượng
Thông lượng được định nghĩa là tổng số lưu lượng có ích được truyền tải thành công trên tổng
số lưu lượng cần truyền tải trong một khoảng thời gian xác định. Lưu lượng có ích được xem
như là lưu lượng thực của các ứng dụng truyền vào mạng mà không tính đến lưu lượng định
dạng khung truyền tải, lưu lượng của các bản tin quản lý, điều khiển mạng... Lưu lượng sinh
ra bởi phần tiêu đề của các khung dữ liệu (overhead) và các bản tin quản lý điều khiển mạng
thay đổi tuỳ theo các công nghệ khác nhau, thông thường chiếm dưới 15 % tổng số lưu lượng
cần truyền và còn phụ thuộc vào kích cỡ của gói dữ liệu.
Khi so sánh thông lượng giữa các công nghệ, chúng ta cần lưu ý một điều rằng: tốc độ đường
thông là khác so với tốc độ băng thông cung cấp. Ví dụ trong công nghệ Gigabit Ethernet, nếu
như chúng ta có một giao diện GbE với băng thông là 1 Gigabít/s thì tốc độ đường thông phải
là 1,25 Gigabít/s. Đối với công nghệ SDH, dữ liệu của phần định dạng khung và xáo trộn dữ
liệu đã làm cho tăng 3 % lưu lượng cho phần tiêu đề. Thông lượng sử dụng đường thông và
băng thông của một số loại hình công nghệ được thể hiện trong bảng 3, trong đó chỉ tính đến
lưu lượng phần tiêu đề tương ứng với các công nghệ mà chưa tính đến lưu lượng quản lý và
điều khiển áp dụng cho mỗi một công nghệ.
Giải pháp công nghệ Thông lượng của băng thông
Thông lượng của
đường thông
IP over GbE 93 % 74 %
IP over RPR over GbE 89 % 71 %
IP over RPR over SDH-NG 87 % 87 %
IP over Ethernet over SDH-NG 88 % 88 %
Bảng 3. So sánh thông lượng đường thông và phần tỉ lệ sử dụng băng thông
ứng với các loại hình công nghệ
4. Giá thành mạng
Giá thành xây dựng mạng MAN bao gồm hai phần chủ yếu: giá thành xây dựng mạng trên cơ
sở giải pháp công nghệ được lựa chọn và giá thành quản lý bảo dưỡng mạng. Thực tế khi xây
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG HỘI NGHỊ KHOA HỌC LẦN THƯ VI
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ VIỄN THÔNG
dựng mạng có thể xảy ra hai trường hợp: một là các nhà cung cấp dịch vụ hiện tại muốn xây
dựng mạng mạng mới trong khi đó vẫn có một cơ sở hạ tầng mạng truyền dẫn (SDH) cũ. Hai
là nhà cung cấp dịch vụ mới muốn xây dựng một mạng cung cấp dịch vụ mới hoàn toàn.
Trong cả hai trường hợp (nhất là đối với trường hợp thứ nhất) việc tính toán lựa chọn công
nghệ, giá thành đều phải cân nhắc với mục đích giảm thiểu chi phí đầu tư mạng mà vẫn có
được mạng đạt yêu cầu đề ra.
4.1. Giá thành xây dựng
Mạng cáp quang chiếm một tỉ trong rất lớn trong giá thành xây dựng mạng, đặc biệt là trong
các đô thị đông dân cư, những nơi chưa có tuyến cáp. trong trường hợp mạng đã có sẵn các
tuyến cáp quang và chất lượng cáp vẫn đảm bảo thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí đầu tư
xây dựng.
Giải pháp công nghệ Giá thành thiết bị
GbE Khá rẻ
RPR over GbE Không quá đắt
RPR over SDH-NG không tích hợp SDH Rất đắt
SDH-NG không tích hợp SDH Đắt
RPR over SDH-NG tích hợp SDH Không quá đắt
SDH-NG tích hợp SDH Không quá đắt
Bảng 4: So sánh giá thành xây dựng mạng dựa trên cơ sở