Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được những thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hóa, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất hàng hóa ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp lớn trên thế giới. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Gạo trở thành một trong 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Đây là thành tựu đáng kể của hoạt động sản xuất và kinh doanh gạo và lại càng đáng kể hơn khi cách đây 20 năm nước ta vẫn còn phải nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên, sản xuất để đáp ứng “cái ăn” của hơn 80 triệu dân Việt Nam, khác với sản xuất lúa hàng hóa tham gia thị trường thế giới với tư cách là nước xuất khẩu. Nhiều vấn đề khúc mắc cần phải giải quyết đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Theo số liệu mới công bố vào tháng 12/2008 của Bộ Thương Mại, mặc dù số lượng gạo xuất khẩu của ta nhiều, đứng thứ hai trên thế giới về mặt khối lượng nhưng lại chỉ xếp thứ tư thế giới xét về mặt giá trị xuất khẩu. Điều này là do chất lượng gạo không đảm bảo, từ khâu chọn giống lúa, bảo quản, vận chuyển và chế biến đều thiếu và yếu. Hơn nữa, cơ chế quản lý điều hành xuất khẩu gạo không hợp lý cùng với công tác dự báo thị trường kém nên thường để lỡ cơ hội xuất khẩu khi giá gạo lên cao và lại bán ra ồ ạt khi giá gạo xuống thấp. Đối với các loại gạo đã có thương hiệu, có chỉ dẫn địa lý thì giá cả ổn định, có thể định giá cao mà người tiêu dùng vẫn chấp nhận mua, trong khi đó gạo xuất khẩu của Việt Nam mặc dù đã có mặt trên thị trường từ rất lâu xong hoàn toàn chưa có thương hiệu nên giá gạo thường xuyên biến động, khó dự đoán, khó có thể định một mức giá quá cao để bán. Vì thế giá gạo Việt Nam thường thấp, chỉ gần bằng 85% giá gạo xuất khẩu thế giới, thấp nhất trong 4 cường quốc xuất khẩu gạo còn lại (Thái Lan, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pakistan). Hạn chế về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm nên Việt Nam cũng chưa thể thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, đem lại giá trị xuất khẩu cao. Với những lợi thế của mình Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện được chất lượng gạo để bán với giá cao hơn. Để có thể phát huy hết tiềm năng của một nền nông nghiệp lúa nước, cần phải nhìn nhận lại thực trạng sản xuất lúa hàng hóa và việc xuất khẩu gạo những năm vừa qua. Việc xem xét đánh giá đó được đặt trong bối cảnh chung của thế giới nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO), có nghiên cứu, xem xét và so sánh với những quốc gia có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, từ đó tìm đến những giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của em khi chọn đề tài “Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

doc121 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7334 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối của Đảng, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được những thành tựu to lớn. Thành tựu lớn nhất là trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu vươn lên trở thành một nền nông nghiệp hàng hóa, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia và có tỉ suất hàng hóa ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp lớn trên thế giới. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay, gạo là một trong những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Gạo trở thành một trong 5 mặt hàng nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Đây là thành tựu đáng kể của hoạt động sản xuất và kinh doanh gạo và lại càng đáng kể hơn khi cách đây 20 năm nước ta vẫn còn phải nhập khẩu lương thực. Tuy nhiên, sản xuất để đáp ứng “cái ăn” của hơn 80 triệu dân Việt Nam, khác với sản xuất lúa hàng hóa tham gia thị trường thế giới với tư cách là nước xuất khẩu. Nhiều vấn đề khúc mắc cần phải giải quyết đối với sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Theo số liệu mới công bố vào tháng 12/2008 của Bộ Thương Mại, mặc dù số lượng gạo xuất khẩu của ta nhiều, đứng thứ hai trên thế giới về mặt khối lượng nhưng lại chỉ xếp thứ tư thế giới xét về mặt giá trị xuất khẩu. Điều này là do chất lượng gạo không đảm bảo, từ khâu chọn giống lúa, bảo quản, vận chuyển và chế biến đều thiếu và yếu. Hơn nữa, cơ chế quản lý điều hành xuất khẩu gạo không hợp lý cùng với công tác dự báo thị trường kém nên thường để lỡ cơ hội xuất khẩu khi giá gạo lên cao và lại bán ra ồ ạt khi giá gạo xuống thấp. Đối với các loại gạo đã có thương hiệu, có chỉ dẫn địa lý thì giá cả ổn định, có thể định giá cao mà người tiêu dùng vẫn chấp nhận mua, trong khi đó gạo xuất khẩu của Việt Nam mặc dù đã có mặt trên thị trường từ rất lâu xong hoàn toàn chưa có thương hiệu nên giá gạo thường xuyên biến động, khó dự đoán, khó có thể định một mức giá quá cao để bán. Vì thế giá gạo Việt Nam thường thấp, chỉ gần bằng 85% giá gạo xuất khẩu thế giới, thấp nhất trong 4 cường quốc xuất khẩu gạo còn lại (Thái Lan, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pakistan). Hạn chế về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm nên Việt Nam cũng chưa thể thâm nhập vào các thị trường tiêu thụ gạo cao cấp, đem lại giá trị xuất khẩu cao. Với những lợi thế của mình Việt Nam hoàn toàn có thể cải thiện được chất lượng gạo để bán với giá cao hơn. Để có thể phát huy hết tiềm năng của một nền nông nghiệp lúa nước, cần phải nhìn nhận lại thực trạng sản xuất lúa hàng hóa và việc xuất khẩu gạo những năm vừa qua. Việc xem xét đánh giá đó được đặt trong bối cảnh chung của thế giới nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO), có nghiên cứu, xem xét và so sánh với những quốc gia có đặc điểm tương đồng với Việt Nam, từ đó tìm đến những giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của em khi chọn đề tài “Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Mục tiêu chung : Đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta trong giai đoạn gần 20 năm trở lại đây, từ đó đề ra những định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong thập niên tới. - Mục tiêu cụ thể : Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến sản xuất và xuất khẩu gạo. Đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1989 đến 2008 trên các khía cạnh cơ chế điều hành quản lý xuất khẩu gạo; khối lượng và kim ngạch xuất khẩu; giá gạo xuất khẩu; chất lượng gạo xuất khẩu; cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian tới để phù hợp với những yêu cầu của hội nhập kinh tế thế giới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. - Phạm vi nghiên cứu: Không gian : xem xét hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam Thời gian: Từ năm 1989 đến 2008. 4. Kết cấu của đề tài Đề tài nghiên cứu ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung bao gồm 4 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam và các vấn đề đặt ra trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam 5. Phương pháp nghiên cứu - Ngoài phương pháp chung là phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích – tổng hợp, thống kê- so sánh. - Sử dụng các nguồn số liệu thứ cấp ( các số liệu đã qua xử lý, được thu thập từ trước và được ghi nhận ) của Tổng Cục Thống Kê, Bộ Thương Mại, Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ (USDA), Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. Lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc trưng và xu hướng phát triển phổ biến của nền kinh tế thế giới, bất luận đó là nền kinh tế có quy mô và trình độ phát triển ra sao và thuộc chế độ chính trị - xã hội thế nào. Khái niệm toàn cầu hóa kinh tế Toàn cầu hóa kinh tế, xét về bản chất, là quá trình gia tăng mạnh mẽ của những mối liên hệ, sự phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại của các quốc gia, khu vực ở lĩnh vực kinh tế trên thế giới. Đây là một quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động... vận động thông thoáng; mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và khu vực được vận hành theo "luật chơi" chung được xác lập qua hợp tác và đấu tranh giữa các thành viên trong cộng đồng quốc tế; sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng; các nền kinh tế ngày càng có quan hệ mật thiết với nhau và tùy thuộc lẫn nhau; tính xã hội hóa của sản xuất ngày càng tăng. Như vậy, toàn cầu hóa là giai đoạn phát triển cao của quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế. Nó đưa tới sự hình thành một thị trường thế giới thống nhất và một hệ thống tín dụng toàn cầu, nơi mà sự phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu, sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - công nghệ giữa các quốc gia trên phạm vi thế giới, đồng thời giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu, như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái... Tuy nhiên, toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình khách quan phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Những khía cạnh tích cực là: Thúc đẩy rất nhanh, rất mạnh sự phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất, đưa tới sự tăng trưởng kinh tế nói chung ngày càng cao; làm tăng thêm sự tùy thuộc, tác động và thúc đẩy lẫn nhau của các nền kinh tế các nước; mỗi nước phải tự điều chỉnh chính sách và các phương thức phát triển kinh tế, hình thành các mối quan tâm chung trong quan hệ quốc tế; thúc đẩy quá trình cạnh tranh đối với mỗi nước và với từng doanh nghiệp trên thương trường, đòi hỏi phải cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh; mở ra những địa bàn và thị trường mới, những đối tác mới cho tất cả các nước. Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế có thể nhìn nhận theo những góc độ sau: Quá trình toàn cầu hóa kinh tế càng được tăng cường thì chủ quyền quốc gia của mỗi nước càng bị hạn chế và thu hẹp một cách tương đối; thúc đẩy các nguồn vốn đầu cơ tăng nhanh, hình thành các "bong bóng xà phòng" - nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi rộng lớn; khoảng cách giàu nghèo trên thế giới và trong mỗi quốc gia ngày càng mở rộng hơn; môi trường toàn cầu hóa là điều kiện thuận lợi cho các nước phương Tây tiến hành chiến tranh kinh tế, chiến tranh tâm lý, "diễn biến hòa bình" hòng buộc các nước đang và chậm phát triển theo sự áp đặt của họ; môi trường sinh thái suy giảm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của nhân loại. Mặc dù toàn cầu hóa kinh tế là con dao hai lưỡi, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nhưng nếu các nước đang phát triển chủ động nắm bắt được cơ hội, tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, biến đó thành sức mạnh của mình trong quá trình phát triển kinh tế thì thách thức được vượt qua, tự nó sẽ trở thành thời cơ. Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đi liền với toàn cầu hóa kinh tế mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự phân công, hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy có thể thấy, bản chất của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là : - Có sự thống nhất giữa yếu tố chủ quan là sự chủ động tham gia của các chính phủ, các quốc gia và yếu tố khách quan là xu thế toàn cầu hóa kinh tế. - Sự chủ động điều chỉnh đường lối, chính sách kinh tế đối ngoại của các chính phủ theo hướng mở cửa, thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại, dịch vụ và đầu tư, thực hiện sự luân chuyển vốn, kỹ thuật, công nghệ, lao động giữa các nền kinh tế nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế của từng nền kinh tế trong môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng, thống nhất - Sự hợp tác và cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế trên mọi lĩnh vực dưới tác động của các quy luật xã hội và phản ánh lợi ích của các giai cấp, dân tộc, đồng thời mang đậm những dấu ấn văn hóa - xã hội đa dạng. - Tính không đồng nhất, gián đoạn và diễn ra trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Từ những lý luận trên đây, có thể thấy mặc dù quá trình toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế luôn song hành với nhau nhưng giữa chúng có sự khác nhau, đó là: Do sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất, công nghệ thông tin và vì lợi ích của chính mình mà các nước phát triển đã phát động toàn cầu hóa kinh tế. Vì toàn cầu hóa là đòi hỏi khách quan như vậy, các nước đang phát triển mặc dù gặp vô vàn khó khăn cũng buộc mình phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, nếu không sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi và bị phân biệt đối xử. Như vậy toàn cầu hóa hoàn toàn là tất yếu khách quan. Trong khi đó, nhận thức được bản chất của toàn cầu hoá, các quốc gia đã chủ động tham gia vào quá trình này. Do vậy hội nhập kinh tế quốc tế mang tính chủ quan trong nhận thức và hành động của từng quốc gia. Nếu toàn cầu hóa có mặt thuận và mặt nghịch thì hội nhập lại luôn mang theo mình cơ hội và thách thức. Đây chính là điều mà bất cứ quốc gia nào muốn hội nhập kinh tế quốc tế thành công cũng phải nhận thức và hành động đúng đắn. 1.2. Khái quát về hoạt động xuất khẩu 1.2.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể dùng là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Thực tế cho thấy, đối với các quốc gia khác trên thế giới hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò không thể thiếu được do mục tiêu phát triển đất nước. Nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa phát triển, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không thể có cơ hội vươn lên củng cố thế lực của mình và nâng cao đời sống nhân dân. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá vượt ra ngoài biên giới một quốc gia. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi thì các quốc gia đều quan tâm đến việc mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến hành hoá tư liệu sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến công nghệ kĩ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu là đem lại ngoại tệ cho các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. 1.2.2. Quan điểm về xuất khẩu trong các lý thuyết ngoại thương Nền kinh tế mỗi nước đều có những nguồn lực nhất định ( đất đai, khoáng sản, tiền vốn, kỹ thuật lao động…), tuy nhiên các nguồn lực này không phải là bất tận thậm chí là khan hiếm. Để sản xuất ra mặt hàng nào đó với số lượng bao nhiêu thì nền kinh tế phải có sự lựa chọn để phân bổ các nguồn lực đó một cách hợp lý. Dưới góc độ hiệu quả kinh tế, các nước sẽ lựa chọn những mặt hàng có lợi thế so sánh để thông qua trao đổi thương mại tận dụng và phát huy các lợi thế so sánh sẵn có và tiết kiệm được nguồn lực, nâng cao hiệu quả sản xuất. Từ thế kỷ 18, các nhà kinh tế học người Anh là Adam Smith và David Ricardo đã lần lượt đưa ra “Lý thuyết lợi thế tuyệt đối”, “Lý thuyết lợi thế so sánh” cho đến này vẫn được coi là những lý thuyết nền tảng của thương mại quốc tế. Cùng với đó lý thuyết về Lợi thế cạnh tranh được coi như vấn đề có tính chiến lược và sách lược của từng quốc gia nhằm phát huy các yếu tố về lợi thế tuyệt đối và so sánh trong quá trình sản xuất và trao đổi thương mại. * Lý thuyết lợi thế tuyệt đối: Thực chất của lợi thế tuyệt đối là việc so sánh chi phí sản xuất tuyệt đối của cùng một loại sản phẩm ở các nước khác nhau. Nước có chi phí sản xuất cao hơn sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có chi phí sản xuất thấp hơn, mọi nguồn lực sẽ được tập trung cho việc sản xuất sản phẩm mà nước đó có chi phí sản xuất thấp hơn để xuất khẩu. Theo Adam Smith thì chi phí sản xuất tuyệt đối thấp bắt nguồn từ việc quốc gia đó có lợi thế về nguồn lực sẵn có như đất đai, khí hậu, lao động. Ở các nước đang phát triển với nguồn tài nguyên dồi dào thì lý thuyết này hoàn toàn có ý nghĩa, nhưng tại các nước phát triển khi mà nguồn tài nguyên đã bị khai thác hoặc không có tài nguyên thì chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế ở đâu? thương mại quốc tế diễn ra thế nào ? Vì thế cần phải xem xét lợi thế so sánh. * Lý thuyết lợi thế so sánh (lợi thế tương đối): Thương mại quốc tế đã ra đời từ rất lâu và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Mỗi quốc gia đều có nguồn lực và khả năng sản xuất giới han, việc trao đổi buôn bán quốc tế sẽ cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Lý thuyết lợi thế so sánh được hình thành dựa vào việc xem xét chi phí sản xuất so sánh để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm ở các nước. Lợi thế so sánh được thực hiện trên nguyên tắc chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có chi phí so sánh thấp hơn sau đó trao đổi lấy sản phẩm có chi phí so sánh cao hơn nhằm thu lợi từ mức giá tương đối rẻ hơn so với sản xuất trong nước. Chẳng hạn : - Nhật: Nếu tập trung toàn bộ nguồn lực để sản xuất: tivi thì có thể sản xuất được 180 triệu tivi; nếu tập trung toàn bộ nguồn lực sản xuất lúa thì được 120 tấn lúa. - Việt Nam: Nếu tập trung toàn bộ nguồn lực để sản xuất: tivi thì có thể sản xuất được 60 triệu tivi; nếu tấp trung toàn bộ nguồn lực sản xuất lúa thì được 120 tấn lúa ( Bảng 1.1.) Bảng 1.1. Số liệu khả năng sản xuất ti vi và lúa ở Nhật Bản và Việt Nam Nhật Bản  Việt Nam   Tivi (triệu)  Lúa( triệu tấn)  Ti vi (triệu)  Lúa (triệu tấn)   180  0  60  0   150  20  50  20   120  40  40  40   90  60  30  60   60  80  20  80   30  100  10  100   0  120  0  120   * Khi không có thương mại : Giả sử nước Nhật chọn sự kết hợp sản xuất và tiêu dùng tại điểm A (90 tivi và 60 lúa) trên đường giới hạn khả năng sản xuất của họ . Việt Nam chọn sự kết hợp tại điểm E (40 tivi và 40 lúa). Đồ thị 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia Nhật bản và Việt Nam khi không có thương mại  Nhật Bản muốn sản xuất 1 tivi phải hi sinh 2/3 lúa và Việt Nam phải hi sinh 1 lúa. Như vậy chi phí sản xuất tivi tương đối của Nhật là 2/3 và của Việt Nam là 1. Như vậy chi phí sản xuất tivi tương đối của Nhật thấp hơn của Việt Nam và ngược lại đối với việc sản xuất ra lúa. Vì thế Nhât sẽ có lợi thế so sánh về sản xuất ti vi, Việt Nam có lợi thế so sánh về sản xuất gạo. Do vậy, Nhật sẽ tập trung sản xuất ra tivi còn Việt Nam sẽ tập trung sản xuất lúa sau đó hai nước sẽ tiến hành trao đổi với nhau. * Khi có thương mại: Nhật chuyên môn hóa vào sản xuất tivi (sản phẩm mà Nhật có lợi thế so sánh ) và sản xuất tại điểm B(180 tivi và 0 lúa) trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Tương tự vậy, Việt Nam sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa và sản xuất tại điểm B’(0 tivi và 120 lúa). Giả sử căn cứ vào nhu cầu tiêu dùng trong nước, nước Nhật sẽ trao đổi 70 tivi lấy 70 lúa với Việt Nam. Tiêu dùng của Nhật sẽ chuyển tới điểm A’(110 tivi và 70 lúa), của Việt Nam chuyển tới điểm E’(70 tivi và 50 lúa). So sánh điểm A’ với điểm A và điểm E’với điểm E, ta thấy rõ ràng tiêu dùng của 2 nước đã tăng lên, biểu hiện của lợi ích do thương mại mang lại. Nguyên nhân sâu xa là mỗi nước đã chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và trao đổi với cá nước khác. Đồ thị 1.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất của hai quốc gia Nhật Bản và Việt Nam khi có thương mai  Như vậy, thương mại dựa trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm có lợi thế tương đối làm cho mọi nước đều có lợi khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế bất kể nước đó có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn các nước khác, hoặc kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh nhất định về các mặt hàng khác. Lý thuyết đã được xây dựng trên một loạt các giả thiết được đơn giản hóa như chỉ có hai quốc gia hai loại sản phẩm, thương mại tự do, không có chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất là cố định, lao động được di chuyển hoàn toàn trong phạm vi một quốc gia nhưng không có khả năng di chuyển giữa các quốc gia và dựa trên lý thuyết tính giá trị bằng lao động.Do vậy, mặc dù quy luật của lợi thế so sánh là nguyên lý cơ bản quan trọng của kinh tế học nhưng vẫn hạn chế vì nó chủ yếu dựa vào lý luận giá trị lao động, cho rằng lao động là yếu tố đầu vào duy nhất. Trong thực tế lao động không phải là đồng nhất, những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, hơn nữa đầu vào của sản xuất còn bao gồm đất đai, vốn, khoa học công nghệ. * Lợi thế cạnh tranh: Ngày nay xu thế hội nhập và tự do hóa thương mại diễn ra mạnh mẽ, nó tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế nhưng nó cũng đặt ra thách thức rất lớn về sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Về nguyên lý, lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh được xét và đánh giá bởi các yếu tố tự nhiên, kinh tế và nó thuần túy ở dạng tiềm năng. Các tiềm năng này sẽ không tạo thành sức mạnh đột phá nếu không có một kế hoạch khai thác hiệu quả, điều này cũng giống như một nước với tiềm năng tự nhiên rừng vàng biển bạc nhưng vẫn nghèo đói nếu không có một giải pháp hữu hiệu để khai thác các tiềm năng đó. Muốn khai thác các tiềm năng, chúng cần được đặt trong mối quan hệ với các vấn đề chính trị và các chính sách kinh tế. Chỉ trên cơ sở khai thác hiệu quả các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội gắn với cục diện chính trị và các định hướng chiến lược mới tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sản xuất và xuất khẩu. Điều này đặc biệt quan trọng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công
Luận văn liên quan