Xung đột văn hóa truyền thống và hiện đại

Truyền thống và hiện đại là hai mặt luôn hiện diện trong đời sống của mỗi quốc gia, dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển. Trong đó, bao gồm cả lĩnh vực văn hóa- vốn được xem là nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy là hai mặt khác nhau, nhưng truyền thống và hiện đại không tồn tại một cách tĩnh tại, độc lập mà luôn có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, có sự vận động, phát triển và dẫn đến sự hình thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Chính vì vậy mà mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đã trở thành vấn đề hàng đầu của mỗi quốc gia. Điều đó càng trở nên đăc biệt quan trọng ở những quốc gia đang phát triển, vốn đã mang trong mình những giá trị văn hóa tích lũy qua suốt chiều dài lịch sử, nay lại đang đứng trước sự nghiệp hiện đại hóa. Nếu không xác định đúng và đầy đủ sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển văn hóa, chúng ta sẽ không thể phát huy được vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại là phát huy tối đa sức mạnh nội lực của dân tộc, vừa tiến lên văn minh, hiện đại, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và bền vững cho đất nước.

pdf18 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3414 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xung đột văn hóa truyền thống và hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA ĐỊA LÝ VĂN HÓA DU LỊCH Xung đột văn hóa truyền thống và hiện đại 1. Nguyễn Thị Mỹ Châu MSSV: 0956080011 2. Bùi Đức Chuyên MSSV: 0956080016 3. Nguyễn Trường Giang MSSV: 0956080034 4. Nguyễn Trần Hoàng Phương MSSV: 0956080128 5. Nguyễn Hải Thảo MSSV: 0956080156 6. Nguyễn Thị Hoàng Uyên MSSV: 0956080208 TP.Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 11 năm 201 2 Lời nói đầu Truyền thống và hiện đại là hai mặt luôn hiện diện trong đời sống của mỗi quốc gia, dân tộc, trên mọi lĩnh vực của quá trình phát triển. Trong đó, bao gồm cả lĩnh vực văn hóa- vốn được xem là nền tảng tinh thần của xã hội. Tuy là hai mặt khác nhau, nhưng truyền thống và hiện đại không tồn tại một cách tĩnh tại, độc lập mà luôn có sự liên hệ, tác động lẫn nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn, có sự vận động, phát triển và dẫn đến sự hình thành diện mạo văn hóa của một dân tộc. Chính vì vậy mà mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại trong văn hóa đã trở thành vấn đề hàng đầu của mỗi quốc gia. Điều đó càng trở nên đăc biệt quan trọng ở những quốc gia đang phát triển, vốn đã mang trong mình những giá trị văn hóa tích lũy qua suốt chiều dài lịch sử, nay lại đang đứng trước sự nghiệp hiện đại hóa. Nếu không xác định đúng và đầy đủ sự thống nhất và mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại trong sự phát triển văn hóa, chúng ta sẽ không thể phát huy được vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại là phát huy tối đa sức mạnh nội lực của dân tộc, vừa tiến lên văn minh, hiện đại, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, tạo lập con đường phát triển ổn định và bền vững cho đất nước. I. Những vấn đề chung về văn hóa Việt Nam 1. Văn hóa là gì? “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. ” (Trần Ngọc Thêm- Cơ sở văn hóa Việt Nam).  Các đặc trưng và chức năng của văn hóa: 3 - Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. - Văn hóa có tính giá trị. Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội. - Văn hóa có tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội với các giá trị tự nhiên. Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người , nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó. - Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử. 2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam - Đặc trưng thứ nhất: Nước ta có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh. Người dân Việt Nam với 54 dân tộc anh em đã có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội mang nhiều ý nghĩa trong sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác nhau của các tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật. - Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Từ cái 4 nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa làng xã và văn minh lúa nước đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây bắc và Đông bắc; từ các vùng đất biên viễn của Việt Nam thời dựng nước ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam Trung Bộ; từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên. - Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ về sau của các dân tộc khác; từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong trong hàng nghìn năm nay cộng với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc, Đông Nam Á; những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21, Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại. 3. Các khía cạnh của văn hóa Việt Nam - Phong tục: Theo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là thói quen lâu đời. Phong tục ở Việt Nam có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Theo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc, phong tục của người Việt Nam cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội. Có những phong tục mất đi và cũng có những phong tục khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua việc những phong tục đó còn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của người Việt Nam. Phong tục sớm nhất trong lịch sử Việt Nam là tục ăn trầu, có từ thời Hùng Vương. Trải qua hàng nghìn năm, người Việt và một số dân tộc khác vẫn giữ được phong tục này trong cuộc sống hàng ngày. Sự bắt đầu của tục ăn trầu được giải thích qua “Sự tích Trầu 5 Cau”, và từ đó, tục ăn trầu trở thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng. Theo thời gian ý nghĩa của tục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu, kết thân của người Việt Nam. Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên liệu: cau (vị ngọt), lá trầu không(vị cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị nồng). Món trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc đáo của Việt Nam. Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui, khách đến được mời trầu, “miếng trầu là đầu câu chuyện”; tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri âm tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá, làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước nên trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt thường có trầu cau. Cũng ra đời từ xa xưa cùng với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay Tết. Vừa là phong tục, Tết cũng vừa là một tín ngưỡng, vừa một lễ hội của người dân Việt Nam. Một số dân tộc khác đón năm mới trong thời gian khác với tên gọi đặc trưng của dân tộc mình như Chol Chnam Thmay (khoảng tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10) của người Chăm Bàlamôm,… Từ Tết Nguyên Đán đón năm mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung Quốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết Thanh minh,… Không thấy nhắc đến sớm trong sử sách nhưng các phong tục như hôn nhân, sinh đẻ, tang lễ,… cũng đã song hành với người Việt Nam từ xa xưa và đến nay vẫn là những phong tục gắn liền với đời sống người Việt Nam. Ẩm thực và trang phục gắn liền với đời sống thường nhật của người Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm, những nét phong tục này đã bị biến đổi đi rất nhiều. Tuy nhiên, qua những gì sử sách và dã sử để lại, ta cũng thấy một sự tinh tế trong ẩm thực, trang phục của người Việt Nam từ xưa đến nay. 6 - Lễ hội: Lễ hội là một hình thức sinh hoạt cộng đồng. Cũng như nhiểu quốc gia khác, Việt Nam cũng có nhiều lễ hội dân gian gắn liền với cuộc sống của người dân. Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình thức sinh hoạt của một cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động. Lễ hội được tổ chức vào những thời điểm khác nhau trong một năm, tuỳ thuộc vào phong tục tập quán của từng dân tộc, nhưng lễ hội vẫn tập trung nhiều nhất vào mùa Xuân. Ngoài các lễ hội lớn và long trọng, từ bắc đến nam còn có hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ khác nhau của các dân tộc. Các lễ hội ở nước ta rất đa dạng, như những lễ hội về nông nghiệp, hội văn nghệ vui chơi, thi tài, hội giao duyên, hội lịch sử,... Trong đó đặc biệt là hội mừng năm mới (Tết Nguyên Đán) của người Việt và một số dân tộc khác. Cùng với các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo ban đầu chỉ mang ý nghĩa nội bộ. Nhưng theo thời gian các lễ hội đó lan sang các tầng lớp xã hội khác và trở thành những lễ hội mang tính cộng đồng như lễ Phật đản của Phật giáo và lễ Noel của Công giáo… - Tín ngưỡng Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh. Người Việt cổ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích được vào thời đó. Ngày nay nhờ những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu, chúng ta đã biết nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt cổ nói chung và tín ngưỡng của họ nói riêng. Thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác. Người dân tin rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh và phù hộ cho con cháu. Chính vì như vậy, gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ được đặt 7 nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết , mỗi ngày người trong nhà đều thắp hương như một cách thông báo đến người đã khuất những việc trong ngày. Giỗ tổ vua Hùng được tổ chức vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm là một lễ hội tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên ở nước ta. - Tôn giáo Với sự biến động của lịch sử các dân tộc tại Việt Nam, trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói chung của người dân Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều từ văn hoá Trung Hoa. Ba hệ tư tưởng Tam giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa. Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, với hai phái du nhập vào Việt Nam bằng hai con đường khác nhau: phái Đại thừa vào Việt Nam qua Trung Quốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo, phái Tiểu thừa qua các nước Đông Nam Á láng giềng vào Việt Nam, thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16. Tuy việc truyền đạo lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nhưng ở Việt Nam, từ lúc đầu cũng đã có một số lượng người theo Công giáo. Từ cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã xâm lược hoàn toàn Việt Nam thì việc truyền đạo mới được tự do dễ dàng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 8% dân số là tín đồ Công giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippines. Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin Lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ 20. Đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,...Ước tính hiện nay có khoảng hơn 1 triệu người theo đạo Tin lành. Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam. Sau đó đạo Hồi theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây Ninh vào thế kỷ XIX. 8 Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài trên, ở miền Nam nước ta còn có các tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài. Đây là hai tôn giáo bản địa Việt Nam. Đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ năm 1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ và ra cả một số tỉnh ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. - Ngôn ngữ: Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở nước ta thành 8 nhóm ngôn ngữ: + Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, người Chứt, người Thổ + Nhóm Tày-Thái: gồm người Tày, Thái, Nùng, Bố Y, Sán Chay, Lào,... + Nhóm Dao-Hmông: gồm người Hmông, Dao, Pà Thẻn,... + Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lô Lô, Si La, La Hủ,... + Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,... + Nhóm Môn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ, Xinh Mun,... + Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru,... + Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,... Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của nước ta, và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Tiếng Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung nhưng tiếng Việt của chúng ta có sự khác biệt về từ ngữ và cách phát âm ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Về nguồn gốc, tiếng Việt được xem là có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ Tày-Thái về mặt thanh điệu. Trong quá trình phát triển, tiếng Việt đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán (được gọi là từ Hán-Việt). Ngoài ra tiếng Việt còn tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ XX đến nay. 9 Về chữ viết, theo một số nghiên cứu khảo cổ, từ thời Hùng Vương, người Việt đã có chữ viết riêng gọi là chữ Khoa Đẩu mà người Trung Quốc miêu tả là giống đàn nòng nọc đang bơi. Tới thời Bắc thuộc, chữ Hán là chữ viết chính thức ở nước ta. Sau khi dành độc lập từ thế kỷ X, với ý thức dân tộc cũng như các từ ngữ không có trong chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm, được sử dụng song song với chữ Hán. Chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ XIII và phát triển rực rỡ vào thế kỷ XV. Tuy nhiên chữ Nôm chỉ được dùng trong lĩnh vực văn chương, còn trong hành chính thì vẫn dùng chữ Hán. Từ thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo phương Tây vào Việt Nam truyền đạo Công giáo đã dựa trên ký tự Latinh để chuyển âm tiếng Việt sang chữ Latinh. Đây là cơ sở cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ hiện nay. Mặc dù chữ Quốc ngữ đã có từ thế kỷ XVII nhưng phải tới đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ mới trở nên phổ biến. Ngoài chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của nước ta, một số dân tộc khác cũng sữ dụng song song chữ viết của dân tộc mình như chữ Khmer của người Khmer ở Nam Bộ, chữ Akhar Thrah của người Chăm, chữ Thái của người Thái ở vùng Tây bắc, chữ Mnông của người Mnông ở Tây Nguyên,...nhằm gìn giữ văn hoá của dân tộc mình cũng như tiếp nhận các tri thức mới từ chữ Quốc ngữ dịch sang. Theo thống kê hiện nay có 26 dân tộc thiểu số tại Việt Nam có chữ viết riêng của mình. - Văn học: Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của người dân. Văn học viết gồm có văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ. Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng nhằm giữ gìn những truyền thống quý báu của dân tộc, bảo tồn những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam trong điều kiện đại đa số người dân trong thời phong kiến không biết chữ Hán. Hình thức văn học dân gian truyền miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. 10 Văn học dân gian thường ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái, tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát trong xã hội. Bằng ngôn ngữ dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng người một cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho những thế hệ sau. Trong văn học viết, chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác phẩm văn học cổ nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế kỷ XI với nội dung chủ yếu về đạo Phật. Đó là những bài thơ, kệ của các vị tang sư giải thích về cơ sở căn bản của đạo Phật, bình luận về các biến cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên. Từ thế kỷ XII, nhiều công trình về lịch sử, địa lý và địa chí bằng chữ Hán đã xuất hiện. Khi hệ thống chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ XIII, nhiều tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm lần lượt xuất hiện. Một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Nôm còn để lại đến hôm nay là các bài thơ của Nguyễn Trãi. Các tác phẩm đồ sộ của ông bao gồm một tuyển tập hàng trăm bài thơ Nôm mang tên Quốc âm thi tập vào thế kỷ XV, kế tiếp là Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, các bài thơ của Hồ Xuân Hương và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Từ đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của công nghệ in ấn cùng với những tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn học mới. Văn xuôi chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó. Sự thay đổi trong đời sống văn học đã xuất hiện với sự ra đời của phong trào Thơ Mới vào những năm 1930. Trong lĩnh vực văn xuôi, hoạt động tích cực của những cây bút trong Tự Lực Văn Đoàn đã góp phần hình thành nên tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 11 Nền văn học Việt Nam từ thời kỳ này xuất hiện nhiều trào lưu, có những tác phẩm chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn, có những tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực và cũng có những tác phẩm gắn liền với chính trị (dòng tác phẩm cách mạng). - Nghệ thuật: Nền nghệ thuật của nước ta có từ hàng nghìn năm nay, bắt đầu từ nghệ thuật truyền thống hay còn gọi là nghệ thuật dân gian. Bắt đầu sớm nhất là kiến trúc dân gian với những hoạ tiết về nhà cửa trên mặt trống đồng Đông Sơn vào khoảng thế kỷ VII TCN. Trải qua thời Bắc thuộc, kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền kiến trúc Trung Quốc. Từ thế kỷ XX, khi dành được độc lập, kiến trúc Việt Nam là sự kết hợp giữa kiến trúc bản địa với những ảnh hưởng từ kiến trúc Trung Quốc, Chăm Pa. Từ cuối thế kỷ 19, với việc đô hộ của thực dân Pháp, kiến trúc Việt Nam bắt đầu áp dụng rộng rãi các khuông mẫu và thủ pháp kiến trúc, xây dựng của phương Tây, nhiều công trình còn tồn tại đến ngày nay ở các đô thị, đặc biệt là tại Hà Nội đã để lại một sắc thái kiến trúc đẹp và độc đáo. Nền Mỹ thuật bắt đầu với điêu khắc cổ được thể hiện trên mặt trống Đồng Đông Sơn của cư dân Lạc Việt. Trải qua các thời kỳ lịch sử, cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài, đã tạo ra nền điêu khắc Việt Nam phát triển rực rỡ vào các thời Lý, Trần, Lê, thể hiện qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên cạnh các công trình kiến trúc và điêu khắc của người Việt, nền điêu khắc kiến trúc nước ta được bổ sung các kỹ thuật tinh xảo trong việc xây dựng các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer Nam Bộ. Hội họa xuất hiện muộn hơn với dòng tranh dân gian Việt Nam, gồm tranh lụa, tranh tết, tranh Đông Hồ. Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những bước tiến dài từ đầu thế kỷ XX với sự ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc, với các tr
Luận văn liên quan