Chuyên đề Ảnh hưởng biến đổi khí hậu rừng ngập mặn

Các hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ gần đây đã làm tăng đáng kể những tác nhân gây hiệu ứng nhà kính (nồng độ khí thải trong các hoạt động công nghiệp, giao thông, sự gia tăng dân số ), làm trái đất nóng dần lên, từ đó gây ra hàng loạt những thay đổi bất lợi và không thể đảo ngược của môi trường tự nhiên. Nếu chúng ta không có những hành động kịp thời nhằm hạn chế, giảm thiểu và thích nghi, hậu quả đem lại sẽ vô cùng thảm khốc. Theo dự báo của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC), đến năm 2100 nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng thêm từ 1,40 C tới 5,80 C. Sự nóng lên của bề mặt trái đất sẽ làm băng tan ở hai cực và các vùng núi cao, làm mực nước biển dâng cao thêm khoảng 90 cm (theo kịch bản cao), sẽ nhấn chìm một số đảo nhỏ và nhiều vùng đồng bằng ven biển có địa hình thấp. Theo dự báo cái giá mà mỗi quốc gia phải trả để giải quyết hậu quả của biến đổi khí hậu trong một vài chục năm nữa sẽ vào khoảng từ 5-20% GDP mỗi năm, trong đó chi phí và tổn thất ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn nhiều so với các nước phát triển Với ưu thế địa hình có đường bờ biển dài, Việt Nam là một trong số các quốc gia có hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng và phong phú trên thế giới. Những dải rừng ven biển này là điểm dừng chân của những cánh chim di cư, nơi nuôi dưỡng các loài hải sản và là ngôi nhà sinh thái của nhiều loài động vật. Từ bao đời nay, cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo vùng biển nương tựa và được che chở trước bão táp phong ba cũng nhờ rừng ngập mặn. Ấy vậy mà trong khi cả thế giới đang lo lắng về biến đổi khí hậu và sôi sục tìm kiếm những giải pháp hạn chế và trong khi Việt Nam được đặt trong cảnh báo đặc biệt của quốc tế về nguy cơ phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu thì đôi lúc chúng ta lại quên rằng chúng ta có một cứu cánh đặc biệt, đó là những cánh rừng ngập mặn.

doc25 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3905 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Ảnh hưởng biến đổi khí hậu rừng ngập mặn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ: GVHD: GS. TSKH LÊ HUY BÁ LỚP: ĐHMT3B SVTH : TRẦN THỊ NGỌC THỊNH MSSV : 07705241 TP Hồ Chí Minh_Tháng 07/2009 MỤC LỤC A. Mở đầu 1 1. Biến đổi khí hậu 2 2. Sơ lược rừng ngập mặn 2 2.1 Khái niệm rừng ngập mặn 2 2.2 Thành phần môi trường rừng ngập mặn 3 2.3 Môi trường khí hậu trong rừng ngập mặn 4 2.4 Đa dạng sinh học rừng ngập mặn 6 2.5 Vai trò rừng ngập mặn 7 3. Nguyên nhân biến đổi khí hậu trong rừng ngập mặn 11 4. Tác động biến đổi khí hậu 14 5. Rừng ngập mặn thích nghi biến đổi khí hậu 18 B. Kết luận 21 Tài liệu tham khảo 22 A. MỞ ĐẦU Các hoạt động của con người trong nhiều thập kỷ gần đây đã làm tăng đáng kể những tác nhân gây hiệu ứng nhà kính (nồng độ khí thải trong các hoạt động công nghiệp, giao thông, sự gia tăng dân số…), làm trái đất nóng dần lên, từ đó gây ra hàng loạt những thay đổi bất lợi và không thể đảo ngược của môi trường tự nhiên. Nếu chúng ta không có những hành động kịp thời nhằm hạn chế, giảm thiểu và thích nghi, hậu quả đem lại sẽ vô cùng thảm khốc. Theo dự báo của Ủy ban Liên Quốc gia về biến đổi khí hậu (IPCC), đến năm 2100 nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng thêm từ 1,40 C tới 5,80 C. Sự nóng lên của bề mặt trái đất sẽ làm băng tan ở hai cực và các vùng núi cao, làm mực nước biển dâng cao thêm khoảng 90 cm (theo kịch bản cao), sẽ nhấn chìm một số đảo nhỏ và nhiều vùng đồng bằng ven biển có địa hình thấp. Theo dự báo cái giá mà mỗi quốc gia phải trả để giải quyết hậu quả của biến đổi khí hậu trong một vài chục năm nữa sẽ vào khoảng từ 5-20% GDP mỗi năm, trong đó chi phí và tổn thất ở các nước đang phát triển sẽ lớn hơn nhiều so với các nước phát triển Với ưu thế địa hình có đường bờ biển dài, Việt Nam là một trong số các quốc gia có hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng và phong phú trên thế giới. Những dải rừng ven biển này là điểm dừng chân của những cánh chim di cư, nơi nuôi dưỡng các loài hải sản và là ngôi nhà sinh thái của nhiều loài động vật. Từ bao đời nay, cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo vùng biển nương tựa và được che chở trước bão táp phong ba cũng nhờ rừng ngập mặn. Ấy vậy mà trong khi cả thế giới đang lo lắng về biến đổi khí hậu và sôi sục tìm kiếm những giải pháp hạn chế và trong khi Việt Nam được đặt trong cảnh báo đặc biệt của quốc tế về nguy cơ phải gánh chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu thì đôi lúc chúng ta lại quên rằng chúng ta có một cứu cánh đặc biệt, đó là những cánh rừng ngập mặn. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: (CLIMATE CHANGE) Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người. Và con người đã làm xáo trộn bầu khí quyển theo nhiều cách khác nhau đưa đến thảm họa cho hệ sinh thái và môi trường. “Biến đổi khí hậu”: “sự thay đổi về khí hậu gây ra trực tiếp hay gián tiếp từ hoạt động của con người làm thay đổi cấu thành của khí quyển trái đất mà, cùng với biến đổi khí hậu tự nhiên,đã được quan sát trong một thời kì nhất định”. (UNFCCC). “Biến đổi khí hậu (BĐKH) là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm (IPCC,2007)...” Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và có sự tác động từ các hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu – Global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện đại.) 2. SƠ LƯỢC RNM 2.1 Khái niệm RNM : Một gốc rừng ngập mặn Cần Giờ Rừng nập mặn (RNM) (managrove forest) là một trong những hệ sinh thái đất ướt ( wetlands) đặc biệt của vùng nhiệt đới nói chung. Đất ướt được hiểu là vùng đầm lấy, nơi cư trú của nhiều loài chim nước và thực vật ngập hoặc bán ngập với sự phong phú đa dạng của nó. Ở hệ sinh thái RNM ngoài những đặc trưng trên nó còn là phân bố tự nhiên của một hệ thực vật rừng với các loài cây phổ biến như đước ( rhizophora ), vẹt ( bruguiera ), mắm ( avicennia ). Trong hệ thực vật này các lào thực vật, các loài động vật, chim thú hoang dã đã sinh sống và phát triển. Loài người ngày nay trở thành ngoại động lực ( exodynamic ) cực mạnh tác động đến môi trường, thúc đẩy nhanh qúa trình biến đổi cấu trúc và dẫn tới sự phá hủy tính cân bằng của thiên nhiên đó. Rõ ràng với nhiều lý do khác nhau, con người đã và đang gây nên những thiệt hại to lớn cho môi trường sống của mình : nạn ô nhiễm tới mức độ nguy hiểm trong không khí, nước, đất, sinh vật, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên không thể phục hồi được, gây nhiễu loạn và phá vỡ tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái tự nhiên. Hệ sinh thái RNM cũng không tránh khỏi tình trạng này. Chúng đã và đang mất đi tính cân bằng vốn có và khó có thể khôi phục lại do sự tác động thường xuyên và không đúng qui luật của con người. Do phân bố tự nhiên trên vùng đầm lầy dọc theo bờ biển nên có thể coi RNM như một khu đệm sinh học tự nhiên, lien kết giữa các hệ sinh thái đất liền và hệ sinh thái biển. Vì là vùng đệm nên chịu ảnh hưởng của hai phía : hải dương và đất liền. Ngược lại, bản thân RNM cũng có tác dụng trở lại với môi trường sinh thái ngại cảm này. Do vậy RNM có giá trị đặc biệt không những về kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn trên khía cạnh môi trường sinh thái. Do sự phát triển dân số của thế giới quá nhanh, do sức ép về kinh tế, các hệ sinh thái RNM ở nhiều nước đã và đang bị khai thác quá mức hoặc bị phá hủy để lấy đất trồng cây công nghiệp, nuôi thủy sản, xây dựng cảng và đô thị… cho nên diện tích RNM mặn bị thu hẹp, tài nguyên giảm rất nhanh chóng. Ngày nay, cùng với trào lưu mang tính toàn cầu ngăn chặn sự hủy hoại môi trường, nhiều tài liệu, hội thảo đã nghiên cứu, đề cập đến việc bảo vệ RNM, một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái đất ướt. 2.2 Thành phần môi trường RNM + Môi trường đất : Môi trường đất của RNM cũng là một “thành phần môi trường sinh thái” trong hệ sinh thái môi trường RNM Đất ở đây là trầm tích phù sa do các song lớn vùng nhiệt đới mang ra biển và dòng hải lưu đưa đến, trong điều kiện môi trường thích ứng để lắng tụ, tạo nên một vùng sơ khai về bùn biển. Quá trình phát triển của RNM cũng làm đồng thời môi trường đất được ổn định dần: từ chỗ ban đầu chỉ là quá trình địa chất đơn thuần sau đó chuyển sang quá trình thổ nhưỡng và địa – hóa – sinh. Quá trình này càng được phát triển thì môi trường đất ở đây càng được ổn định dần. Tuy nhiên, đất chưa phân tầng rõ ràng nhưng bước đầu đã có kết cấu. Môi trường đất có thể có 3 dạng : - Đất bùn mặn : loại này nằm ở ngoải rìa RNM, mới được hình thành, chưa có nền ổn định, chưa có phân tầng. Trong thành phần chủ yếu của nó là các hạt sét, chưa có chất khoáng, một ít chất hữu cơ từ quá trình trầm tích mang lại . Chưa có sự tham gia của thực vật sống của RNM. Có chăng chỉ là tác dụng của bộ rễ cố định phù sa trong nước, nhưng chưa có sự trao đổi, chưa có quá trình sinh – địa – hóa hoàn chỉnh. - Loại đất ổn định dần : được tìm thấy với vùng tiếp giáp với đất bùn biển, nằm trong khu hệ của RNM. Đất đã có tầng, nhưng chưa rõ, chủ yếu là tầng hữu cơ trên mặt tầng sét bùn ở dưới. Thành phần cơ giới ở dưới là sét mịn. phản ứng môi trường thường là trung tính đến kiềm, độ mặn cao. Trong môi trường đất đã bắt đầu có hoạt động của một số vi sinh vật, sự trao đổi khí thông qua bộ rễ của mắm, bần, đước; bước đầu đã có hoạt động của động vật ven biển. Trong nước mặt đã có vi sinh vật phù du. - Loại đất đã có nền tương đối ổn định : phẩu diện đã có 3-4 tầng, trong tầng sâu có thể có tầng hữu cơ. Đó là sản phẩm của quá trình phân giải không hoàn toàn xác hữu cơ của rừng sú vẹt ở thời kỳ trước. Tuổi loại đất này thường khoảng trên 100 năm, có nơi đến vài nghìn năm. Loại đất này có thể chia làm 3 nhóm : nhóm đất mặn trong RNM, nhóm đất phèn tiềm tang, loại đất phèn hoạt động. 2.3 Môi trường khí hậu trong RNM Các nhà khoa học đang tranh cãi về vai trò của môi trường khí hậu- thành phần của hệ sinh thái môi trường ngập mặn. Một số tác giả cho rằng hệ sinh thái rừng ngập mặn độc lập độc lập với khí hậu. Nhưng một số tác giả khác đánh giá ngược lại, cho rằng khí hậu đóng vai trò rất lớn. Quan điểm của chúng tôi là các yếu tố khí hậu, đới khí hậu ảnh hưởng rất mạnh nhưng vùng khí hạu ảnh hưởng ít hơn, còn trong một vùng ( ví dụ Nam Bộ) thì ảnh hưởng yếu tố khí hậu không rõ lắm. 2.3.1 Nhiệt Độ - Nhiệt độ làm ảnh hưởng lên sự sinh trưởng và sản lượng các loài. Ở những vùng nhiệt độ bình quân trong năm cao, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm, giữa các mà thấp( đồng thời có độ ẩm cao) thì RNM phát tiển cả về kích thước và sản loài. - Ở vùng có nhiệt độ trung bình trong năm thấp ( ≤ 16 0 C ), biên độ nhiệt độ trong ngày và trong năm lớn thì thực vật RNM giảm mạnh cả về thành phần và kích thước. - Ví dụ: ở Việt nam, rừng ngập mặn ở Cà Mau nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo phát triển tốt. Ngược lại, rừng ngập mặn ở Quảng Ninh chịu tác động của gió mùa Đông-Bắc, biên độ nhiêt trong ngày và năm vào mùa đông thay dổi nhiều, nên rừng kém phát triển về thành phần và chiều cao. 2.3.2 Lượng Mưa - Lượng mưa ở một khu vực chịu ảnh hưởng của địa hình và chế độ gió. Blasco (1983) nhận định: rừng ngập mặn phát triển mạnh về kích thước và thành phần ở những nơi có lượng mưa hằng năm cao và không có mùa khô. Nhận xét này phù hợp với tình hình phân bố ở vùng xích đạo. -Ở vùng nhiệt đới: lượng mưa phân bố không đồng đều trong năm. Ví dụ khu vực Đông Nam Á có một mùa mưa và một mùa khô. Mùa mưa cũng là thời kỳ cây ngặp mặn ra hoa hoặc phân tán hạt hoặc cây con nên rừng ngập mặn phát triển. - Từ đó, ta có nhận xét: trong các vùng nhiêt đới có mùa mưa trùng với thời kỳ sinh sản của cây ngập mặn thì nơi đó rừng phát triển, còn nơi nào tuy có sản lượng mưa lớn nhưng mùa khô trùng với mùa sinh sản thì không có rừng ( vì thiếu nước ngọt cây con không sinh trưởng được). - Rừng ngập mặn phát triển trên vùng đất thấp ven biển nhiệt đới và á nhiệt đới chịu tác động của cường độ ánh sang mạnh ở những khu vực chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa thì về mùa khô, ánh sáng mạnh đã trở thành một yếu tố hạn chế sự dinh trưởng của cây ngặp mặn vì nó làm nhiệt độ không khí tăng dần, dẫn đến nước trong đất và trong cây bốc hơi là cây thiếu nước mà không phát triển được và cũng từ đó cây hình thành những đặc điểm thích nghi mới. 2.3.3 Mây - Từ trước đến nay ít tài liệu đề cập tới vai trò của mây. ở nơi nào mùa mưa lớn thì lớp mây cũng dầy làm giảm cường độ ánh sáng, giảm nhiệt độ không khí và đất, giữ độ ẩm cao, hạn chế lượng nước bốc hơi. Nước trong đất khan hiếm làm cho lượng mối trong đất không tăng, mặt khác cây cây giảm thóat hơi nước kéo theo sự hạ thấp lượng nước thừa xâm nhập cơ thể. 2.3.4 Gió - Chưa có nghiên cứu nào có tính hệ thống về vai trò của gió đối với sinh học rừng ngập mặn. Như gió cũng là một nhân tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và sự phân bố của cây rừng ngập mặn. - Gió mùa có tác dụng lớn làm tăng lượng mưa ở vùng ngập mặn. - Gió có thể mang cát từ bờ biển vào làm thay đổi các cửa song, các bãi biển. - Các loại gió thịnh hành ở bờ biển theo những hướng nhất định trong năm đã tạo nên những dòng chảy ven bờ vận chuyển phù sa, trầm tích, cát biển từ chỗ này đến chỗ khác. - Gió góp phần đáng kể trong việc đưa nước biển vào trong đất liền. - Gió mạnh và bão nhiệt đới làm thay đổi diện tích, tình trạng rừng ngập mặn nhiều nơi trên thế giới. - Gió mạnh làm thay đổi khí hậu địa phương - Gió làm xáo trộn độ mặn của lớp nước mặn trên song khiến cho qui luật phân bố mặn theo chiều sâu bị thay đổi. 2.4 Đa dạng sinh học RNM - Thực vật: khu hệ thực vật RNM Việt Nam bao gồm 47 họ thực vật. Số lượng biến đổi theo từng vùng khác nhau: vùng ven biển Bắc Bộ có 52 loài, vùng ven biển Trung bộ có 69 loài, vùng ven biển Nam Bộ có 100 loài. Vùng ven biển Cà Mau có hệ sinh thái RNM phong phú nhất về thành loài cây, sinh trưởng phát triển tốt nhất và đạy kích thước lớn nhất. Nơi đây gần với trung tâm hình thành và phân bố RNM ở Đông Nam Á là Indonesia và Malaysia. - Động vật : RNM bao gồm cả hai loại thủy sản nửa thủy sản và các cộng đồng sống trên cạn : 258 loài cá, 88 loài lưỡng cư, 21 loài bò sát, 67 loài chim, 4 loài có vú,28 loài giáp xác,10 loài nhuyễn thế, 4 loài côn trùng đã được báo cáo. - Thí dụ : kết quả nghiên cứu ở RNM Cần Giờ (Tp.HCM) chỉ cho thấy 22 loài động vật sống nổi trên mặt nước; 114 loài động vật đáy bao gồm 34 loại giun, 51 loại giáp sát, 29 loại thân mềm; 137 loài cá; 9 loài lưỡng cư; 31 bò sát; 130 loài chim, 19 loài động vật có vú (theo Vũ Trung Tạn, 1994; Lê Đức Tuấn, 1007) 2.5 Vai trò RNM Tình hình bão lụt phá hoại đê biển ở Việt Nam Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm hứng chịu từ 5 đến 8 cơn băo và triều cường gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, xã hội và môi trường. Trước đây, nhờ có các dải rừng ngập mặn (RNM) tự nhiên hoặc rừng trồng ở ven biển, cửa sông nên đê điều ít khi bị vỡ, tính mạng và tài sản của người dân được bảo vệ. Trong nhiều năm qua, do việc phá rừng nội địa ngày càng tăng, tạo điều kiện cho lũ lụt hoành hành ở vùng hạ lưu ven biển. Nạn sụt lở đất xảy ra ở nhiều nơi, rửa trôi theo dòng lũ quét đổ về hạ lưu. Bên cạnh đó, việc phá RNM để lŕm đầm nuôi tôm, cua, mở rộng khu công nghiệp, đô thị, khu du lịch ngày càng tăng nên cuộc sống của cộng đồng ven biển luôn bị đe dọa bởi thiên tai. Năm 1992, phần lớn rừng phòng hộ bị phá để nuôi tôm nên vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng đă bị triều cường cùng lốc xoáy tàn phá nặng nề, hơn 200 người chết. Sau đó, tỉnh đã phải đầu tư kinh phí để phục hồi rừng. Năm 2005, Việt Nam hứng chịu nhiều cơn bão hơn so với những năm trước, sức tàn phá của bão ngày càng mạnh và rộng hơn, gây ra những thiệt hại to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng. Nhiều đoạn đe biển bị vỡ hoặc sạt lở, nước mặn tràn vào nội đồng, lũ quét tàn phá một số vùng miền núi. Cơn bão số 2 đổ bộ vào các tỉnh ở ven biển Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ ngày 1/8/2005 với sức gió cấp 8, 9, 10, giật cấp 12 kèm theo mưa lớn, thủy triều dâng cao làm cho nhiều tuyến đê hư hỏng nặng như đê Vĩnh Bảo, An Lão, Tiên Lãng (Hải Phòng), Nghĩa Hưng, Hải Hậu, Giao Thủy (Nam Định), Bắc Cửa Lục, Hoŕnh Bồ (Quảng Ninh). Ở đảo Cát Hải, bão kết hợp triều cường làm nước dâng cao 4,5 - 5m tràn qua mặt đê, làm cho đê vỡ nhiều đoạn. Tại Đồ Sơn, trên đê biển 1 có đoạn bị sụt sâu đến 2m, 2 đoạn từ km số 6 đến km 1 cũng bị nước biển tràn qua. Trong tháng 9/2005, cơn bão số 6 với sức gió mạnh cấp 8, 9, vùng gần tâm bão đi qua cấp 10, giật trên cấp 10 kèm theo mưa lớn kết hợp triều cường đã làm nước biển dâng cao gây đổ nhà cửa, ngập lụt nhiều nơi. Nhiều đoạn đê biển ở các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc (Nghệ An) bị sạt lở nặng. Khi các tuyến đê chưa kịp phục hồi thì sáng ngày 27/9/2005, cơn bão mạnh số 7 với sức gió trên cấp 12 đã đổ bộ vào một số tỉnh miền Bắc nước ta. Theo Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương, tổng thiệt hại ban đầu về vật chất do băo số 7 gây ra: làm vỡ 275m đê biển (Hải Phòng 50m, Nam Định 200m, Thanh Hóa 15m); sạt lở 54.055m (Nam Định 1.250m, Thái Bình 3.500m, Ninh Bình 725m, Thanh Hóa 18.850m, Nghệ An 30.000m), 966 căn nhà bị đổ sập, 9.468 căn nhà bị tốc mái. Ngoài ra, số phòng của các trường học, bệnh viện, trạm xá bị đổ, tốc mái, hư hỏng lên tới gần 260 phòng. Theo đánh giá của ông Đặng Quang Tính, Cục trưởng Cục Quản lý đê điều và Phòng chống lụt bão: "Qua việc đối phó với cơn bão số 7, chúng ta rút ra bài học trong công tác chỉ đạo và phối hợp lực lượng nhưng đồng thời cũng bộc lộ một số mặt tồn tại cần khắc phục như vấn đề đầu tư cho đę biển, vật tư, trang thiết bị phục vụ cứu hộ, cần phải từng bước tăng cường mới có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công tác phòng chống lụt bão. Trong công tác xây dựng và bảo vệ đê biển, Ban Phòng chống lụt bão ở Trung ương cùng nhiều địa phương mới chỉ chú ý đến bê tông hóa hoặc cứng hóa mái đê và kè mà chưa quan tâm đến việc trồng và bảo vệ các RNM, những bức tường xanh bảo vệ hiệu quả các vùng ven biển, làm giảm thiểu tác hại của bão, lụt. Nếu những vùng ven biển trên vẫn giữ được RNM và mái đê có thêm thảm cỏ che phủ như thời kỳ thập kỷ 60 của thế kỷ 20 thì tình hình thiệt hại có thể không lớn như thời gian vừa qua". Năm nay, vùng ven biển huyện Thái Thụy (Thái Bình), tuy không nằm trong tâm bão số 7 nhưng sóng cao ở sông Trà Lý đã làm sạt lở hơn 600m đê nơi không có RNM thôn Tân Bồi, xã Thái Đô, trong lúc phần lớn tuyến đê dài 5 km có RNM ở xã này không bị sạt lở vì thảm cây dày đặc đã làm giảm mạnh cường độ sóng. Qua trao đổi với một số người dân địa phương ở xã Bàng La - Hải Phòng và xã Giao Lạc - Giao Thủy sau cơn bão số 7, hầu hết những người được hỏi đều cho rằng nếu không có các dải RNM thì đê không thể tồn tại như hiện nay. Tác dụng của RNM trong việc bảo vệ vùng ven biển Đê Cát Hải (Hải Phòng) bị phá vỡ dẫu đã được kiên cố hóa bằng bê tông trong khi đê đất của Thái Bình,nhờ được rừng ngập mặn che chở, vẫn bình yên sau những cơn bão lớn năm 2005. (Ảnh Gs.Phan Nguyên Hồng) Từ đầu thế kỷ trước, nhân dân ở các vùng ven biển phía Bắc đã biết trồng một số loài cây ngập mặn như trang (Kandelia obovata) và bần chua (Sonneratia caseolaris) để bảo vệ đê biển và vùng cửa sông. Mặc dầu thời kỳ đó đê chưa được bê tông hóa và xây kè đá như bây giờ nhưng nhiều đê không bị vỡ khi có bão vừa (cấp 6 -8). Đó là nhờ các vành đai rộng RNM chắn sóng, thảm cỏ và dây leo dày đặc trên mái đê bảo vệ cho đê không bị xói lở. Mặt khác thân đê được đắp bằng loại đất thịt và nén chặt, không có tình trạng độn đê bằng cát và cành lá cây. Từ nửa cuối thế kỷ 20, do dân số vùng biển tăng nhanh, nhu cầu xuất khẩu các hàng hóa bằng cói sang Liên Xô và Đông Âu cao nên nhiều địa phương đã phá RNM để phát triển diện tích cói. Khi chế độ xă hội chủ nghĩa ở các nước này tan rã, với chủ trương đổi mới, mở rộng quan hệ quốc tế thì các đồng cói được chuyển sang nuôi tôm xuất khẩu vŕ phần lớn diện tích RNM chống sóng còn lại dọc ven biển Việt Nam đã biến thành các loại đầm tôm, đầm cua. Một số địa phương thực hiện nghiêm túc chương trình trồng rừng 327 của chính phủ và của các NGO thì đê điều, đồng ruộng được bảo vệ tốt. Năm 2001, một cơn bão lớn đổ bộ vào huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh), nhờ các dải RNM trồng ở 9 xã vùng nước lợ nên hệ thống đê sông Nghèn không bị hư hỏng. Nhân dân thị xã Hà Tĩnh có nhận xét: Nếu không được Quĩ Cứu trợ Nhi đồng Anh (SCF-UK) giúp đỡ trồng RNM thì đê Đồng Môn đã bị vỡ và thị xã Hà Tĩnh đã bị ngập sâu, thiệt hại do cơn bão này sẽ khôn lường. Năm 1996, khi cơn bão số 2 đổ bộ vào huyện Thái Thụy (Thái Bình) nhờ có các dải RNM rộng nên đê biển, bờ nhiều đầm không bị hỏng, trong lúc huyện Tiền Hải do phá phần lớn RNM nên hầu hết các bờ đầm đều bị xói lở hoặc bị vỡ. Vai trò của RNM trong việc bảo vệ, đất bồi, chống xói lở, hạn chế xâm nhập mặn + Mở rộng diện tích đất bồi, hạn chế xói lở Sự phát triển của RNM và mở rộng diện tích đất bồi là hai quá trình luôn luôn đi kèm nhau (trừ một số trường hợp đặc biệt). Nhìn chung, những bãi bồi có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, có nguồn giống và được bảo vệ đều có cây ngập mặn. Tác dụng của các dải RNM vùng ven biển, cửa sông đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển đất bồi tụ, hạn chế xói lở bờ, làm giảm tốc độ gió, sóng và dòng triều vùng có đê ven biển và trong cửa sông. Rễ cây ngập mặn, đặc biệt là những quần thể thực vật tiên phong mọc dày đặc có tác dụng làm cho trầm tích bồi tụ nhanh hơn. Chúng vừa ngăn chặn có hiệu quả hoạt động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm cho trầm tích lắng đọng. Mặt khác RNM có tác dụng hạn chế xói lở và các quá trình xâm thực bờ biển. Ở vùng hạ lưu và cửa biển, cửa sông lớn như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, phù sa thường ngưng đọng ở trên lòng sông và ngoài cửa sông tạo nên những hòn đảo nổi. Trong điều kiện thuận lợ