Đề tài Chế độ thanh toán các khoản nợ trong luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam

Trong nền kinh tế thị trường cùng với việc đơn giản thủ tục thành lập doanh nghiệp đã có rất nhiều doanh nghiệp được cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bên cạnh đó có ngày càng nhiều các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ bên bờ vực phá sản. Theo quy luật kinh tế cạnh tranh của thị trường thì doanh nghiệp này phá sản thì doanh nghiệp khác ra đời thế chỗ. Vì vậy, nhà nước ban hành luật phá sản nhằm cứu giúp doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản phục hồi khả năng thanh toán, bên cạnh đó luật pháp phá sản còn bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ, quyền lợi của công nhân viên trong doanh nghiệp và quyền lợi của nhà nước. Luật phá sản ban hành giúp cho các doanh nghiệp ra đi trong trật tự của nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế ổn định tăng sức cạnh tranh và năng cao được vai trò quản lý của nhà nước. Luật phá sản doanh nghiệp ra đời ngày 30/12/1993 và bắt đầu có hiệu lực ngày 1/7/1994. Ra đời dựa trên tinh thần đó nhưng qua 10 năm áp dụng luật thực tiễn cho thấy số vụ phá sản rất ít năm 1995-2001 chỉ có 80 trường hợp tỷ lệ đó ở Việt Nam rất thấp một cách kinh ngạc 0,03% so với 30% ở Mỹ, 23% ở Pháp. Câu hỏi đặt ra là phải chăng nền kinh tế Việt Nam đang ở tình trạng “sức khỏe tốt”, các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn có hiệu quả và đang trong tình trạng phát triển tốt, có khả năng thanh toán được hết nợ. Thực tế không phải vậy có rất nhiều doanh nghiệp dừng hoàn toàn mọi hoạt động chỉ sống thoi thóp, nhưng không được tuyên bố phá sản gây nên. Một trong những bất cập của phá sản doanh nghiệp đó là trong khâu thanh lý tài sản của doanh nghiệp để trả nợ cho chủ. Tài sản của doanh nghiệp còn rất ít mà phải ưu tiên thanh toán cho chi phí thanh lý, tiền lương trả cho công nhân viên, thuế của nhà nước. Sau khi thanh toán những phần ấy thì giá trị tài sản còn lại rất ít thậm chí không còn để thanh toán cho các chủ nợ không có bảo đảm. Vì vậy, các chủ nợ (một trong các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu toà tuyên bố phá sản doanh nghiệp đang mắc nợ mình) không muốn con nợ tuyên bố phá sản mà tìm cách khác để thu hồi món nợ của mình. Trong quá trình thanh toán phá sản doanh nghiệp thì chủ nợ không có đảm bảo là thua thiệt nhiều nhất vì họ được ưu tiên thanh toán sau cùng còn các chủ nợ cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán đầu tiên, sau đó đến chi phí phá sản, thanh toán khoản còn nợ công nhân viên và khoản nợ nhà nước. Trong các món nợ thì thuế của nhà nước chiếm tỷ trọng cao và trong các chủ nợ thì nhà nước có tiềm lực tài chính lớn hơn cả mà được ưu tiên thanh toán trước chủ nợ không có bảo đảm đã tạo ra sự không công bằng giữa các chủ nợ. Việc không thu được nợ của các chủ nợ không có đảm bảo kéo theo doanh nghiệp của các chủ nợ rơi vào tình trạng phá sản. Do những điểm còn tồn tại trên yêu cầu đòi hỏi phải sửa đổi thứ tự ưu tiên thanh toán trong luật phá sản doanh nghiệp cho hợp lý bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và giúp luật phá sản phát huy được hiệu quả hơn nữa, đưa nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh, đưa các doanh nghiệp ra đi trong vòng trật tự không gây xáo trộn cho nền kinh tế. Sau khi nghiên cứu kỹ tài liệu và nắm được phương pháp luận khoa học em chọn đề tài: “Chế độ thanh toán các khoản nợ trong luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam”. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của giảng viên chính Phạm Văn Luyện đã giúp em hoàn thành đề tài này.

doc33 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chế độ thanh toán các khoản nợ trong luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI GIỚI THIỆU Trong nền kinh tế thị trường cùng với việc đơn giản thủ tục thành lập doanh nghiệp đã có rất nhiều doanh nghiệp được cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp bên cạnh đó có ngày càng nhiều các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ bên bờ vực phá sản. Theo quy luật kinh tế cạnh tranh của thị trường thì doanh nghiệp này phá sản thì doanh nghiệp khác ra đời thế chỗ. Vì vậy, nhà nước ban hành luật phá sản nhằm cứu giúp doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản phục hồi khả năng thanh toán, bên cạnh đó luật pháp phá sản còn bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ, quyền lợi của công nhân viên trong doanh nghiệp và quyền lợi của nhà nước. Luật phá sản ban hành giúp cho các doanh nghiệp ra đi trong trật tự của nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế ổn định tăng sức cạnh tranh và năng cao được vai trò quản lý của nhà nước. Luật phá sản doanh nghiệp ra đời ngày 30/12/1993 và bắt đầu có hiệu lực ngày 1/7/1994. Ra đời dựa trên tinh thần đó nhưng qua 10 năm áp dụng luật thực tiễn cho thấy số vụ phá sản rất ít năm 1995-2001 chỉ có 80 trường hợp tỷ lệ đó ở Việt Nam rất thấp một cách kinh ngạc 0,03% so với 30% ở Mỹ, 23% ở Pháp. Câu hỏi đặt ra là phải chăng nền kinh tế Việt Nam đang ở tình trạng “sức khỏe tốt”, các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn có hiệu quả và đang trong tình trạng phát triển tốt, có khả năng thanh toán được hết nợ. Thực tế không phải vậy có rất nhiều doanh nghiệp dừng hoàn toàn mọi hoạt động chỉ sống thoi thóp, nhưng không được tuyên bố phá sản gây nên. Một trong những bất cập của phá sản doanh nghiệp đó là trong khâu thanh lý tài sản của doanh nghiệp để trả nợ cho chủ. Tài sản của doanh nghiệp còn rất ít mà phải ưu tiên thanh toán cho chi phí thanh lý, tiền lương trả cho công nhân viên, thuế của nhà nước. Sau khi thanh toán những phần ấy thì giá trị tài sản còn lại rất ít thậm chí không còn để thanh toán cho các chủ nợ không có bảo đảm. Vì vậy, các chủ nợ (một trong các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu toà tuyên bố phá sản doanh nghiệp đang mắc nợ mình) không muốn con nợ tuyên bố phá sản mà tìm cách khác để thu hồi món nợ của mình. Trong quá trình thanh toán phá sản doanh nghiệp thì chủ nợ không có đảm bảo là thua thiệt nhiều nhất vì họ được ưu tiên thanh toán sau cùng còn các chủ nợ cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán đầu tiên, sau đó đến chi phí phá sản, thanh toán khoản còn nợ công nhân viên và khoản nợ nhà nước. Trong các món nợ thì thuế của nhà nước chiếm tỷ trọng cao và trong các chủ nợ thì nhà nước có tiềm lực tài chính lớn hơn cả mà được ưu tiên thanh toán trước chủ nợ không có bảo đảm đã tạo ra sự không công bằng giữa các chủ nợ. Việc không thu được nợ của các chủ nợ không có đảm bảo kéo theo doanh nghiệp của các chủ nợ rơi vào tình trạng phá sản. Do những điểm còn tồn tại trên yêu cầu đòi hỏi phải sửa đổi thứ tự ưu tiên thanh toán trong luật phá sản doanh nghiệp cho hợp lý bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và giúp luật phá sản phát huy được hiệu quả hơn nữa, đưa nền kinh tế cạnh tranh lành mạnh, đưa các doanh nghiệp ra đi trong vòng trật tự không gây xáo trộn cho nền kinh tế. Sau khi nghiên cứu kỹ tài liệu và nắm được phương pháp luận khoa học em chọn đề tài: “Chế độ thanh toán các khoản nợ trong luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam”. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của giảng viên chính Phạm Văn Luyện đã giúp em hoàn thành đề tài này. I/ Phá sản và luật phá sản doanh nghiệp trong pháp luật Việt Nam 1. Khái niệm phá sản 1.1. Khái niệm doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế Theo Điều 3 khoản 1 Luật doanh nghiệp được quốc hội thông qua ngày 12-6-1999 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2000 thì “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Mà theo khoản 2 “kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”. Theo quan điểm của các nhà quản trị: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh. Loại hình doanh nghiệp là một phạm trù đa nghĩa, được dùng trong nhiều trường hợp: về tổ chức sản xuất, về hình thức sở hữu, về quy mô, về lĩnh vực hoạt động kinh doanh... Về quy mô có doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp lớn. Phân chia theo địa điểm xây dựng ta có: doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp khu công nghiệp và các doanh nghiệp khác. Phân chia theo lĩnh vực hoạt động sản xuất - kinh doanh thì doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp xây dựng, doanh nghiệp giao thông vận tải, doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương mại, các ngân hàng thương mại... Phân chia theo hình thức sở hữu ta có rất nhiều loại hình doanh nghiệp sau: + Theo luật doanh nghiệp nhà nước thông qua ngày 20-4-1995 thì doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Trong doanh nghiệp nhà nước chia thành doanh nghiệp nhà nước độc lập, doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, tổng công ty nhà nước. Theo dự thảo luật doanh nghiệp nhà nước sửa đổi thì: doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên. + Doanh nghiệp tư nhân: theo điều 99 của luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. + Theo luật doanh nghiệp (2000) bao gồm các loại công ty: cổ phần, trách nhiệm hữu hạn, hợp danh. Công ty được sử dụng là một loại hình doanh nghiệp mà được hình thành nên do góp vốn. Công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. + Theo luật hợp tác xã: hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn lập ra theo quy định để phát huy sức mạnh của tập thể cũng như của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động kinh doanh dịch vụ và sản xuất cải thiện đời sống góp phần phát triển. + Theo luật đầu tư nước ngoài có hai loại hình doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh do bên hoặc các bên Việt Nam cùng với bên hoặc các bên nước ngoài cùng góp vốn thành lập tại Việt Nam và các bên tham gia liên doanh cùng tham gia quản lý điều hành doanh nghiệp cùng tham gia phân chia kết quả kinh doanh cùng gánh chịu theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ 100% vốn thành lập ở Việt Nam trên cơ sở được phép của chính phủ Việt Nam chấp thuận nhà đầu tư nước ngoài tự điều hành doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình đối với nhà nước Việt Nam. 1.2 Khái niệm phá sản theo luật Việt Nam. Phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp. Dưới góc độ nội dung, khái niệm phá sản dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp của tình trạng mất cân đối là hiện tượng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Dưới góc độ tố tụng thì phá sản được hiểu là hình thức tố tụng đặc biệt: thủ tục đòi nợ đặc biệt. Trước ngày có luật phá sản doanh nghiệp, thì luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân (ngày 21-12-1990) có quy định rằng doanh nghiệp tư nhân hay tư nhân gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số các tài sản còn lại của doanh nghiệp (hay công ty) không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn, là doanh nghiệp hay công ty lâm vào tình trạng phá sản. Điều 2 luật phá sản doanh nghiệp năm 1994 đã quy định rằng: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Như vậy dấu hiệu đặc trưng nhất để xác định lâm vào tình trạng phá sản là dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Còn dấu hiệu áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết chỉ là dấu hiệu bổ sung cho phép khẳng định tình trạng mất khả năng thanh toán đến hạn mà thôi. Thủ tục phá sản được coi là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Khác với thủ tục đòi nợ thông thường là chỉ nhằm thu hồi nợ cho các chủ nợ, thủ tục phá sản còn hướng tới một mục đích lớn hơn phục hồi khả năng thanh toán nợ của con nợ, giúp con nợ thoát khỏi khó khăn về tài chính, trở lại hoạt động bình thường. Phân biệt tình trạng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và doanh nghiệp phá sản. Theo tinh thần của luật phá sản doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp đó mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và dấu hiệu mất khả năng thanh toán không phải nhất thời mà rất trầm trọng. Còn khái niệm phá sản có thể hiểu là hiện tượng doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà bị cơ quan có thẩm quyền quyết định tuyên bố phá sản để bảo vệ lợi ích cho các chủ nợ, cho doanh nghiệp và cho toàn xã hội. 1.3 Khái niệm phá sản theo luật nước ngoài Phá sản theo theo ngôn ngữ chung trong luật phá sản của nhiều nước hiện nay, thì phá sản là tình trạng doanh nghiệp (pháp nhân hay thể nhân) không có khả năng nộp thuế, không thanh toán. Công nợ trong thời gian quy định luật Vương quốc Anh: Một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ khi có một chủ nợ trên 50 bảng đã: - Gửi đơn đến đòi nợ doanh nghiệp và sau ba tuần lễ doanh nghiệp đã không trả nợ hoặc không tìm ra được biện pháp bảo đám thoả đáng số nợ - Có một án lệnh bắt doanh nghiệp trả nợ mà không thể thi hành được - Khiếu nại số nợ không xong Thì coi như đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sẽ bị đưa vào thi hành thủ tục phá sản doanh nghiệp Theo quy định luật phá sản Hungari ban hành năm 1991 có quy định: nếu doanh nghiệp bị rơi vào một trong các trường hợp sau đây đều coi là phá sản - Sau 60 ngày không trả được lương cho cán bộ công nhân viên của mình hoặc quá hạn 30 này không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ (doanh nghiệp) không có thảo luận gì (xin khất nợ hay thông báo lý do khất nợ). Với các chủ nợ hoặc thấy trước không có khả năng thanh toán các khoản nợ sẽ đến hạn trong vòng một năm. - Đã có lệnh buộc phải trả nợ, hay hết hạn vẫn chưa trả được nợ - Không thực hiện đúng hạn các cam kết với các chủ nợ trước pháp luật 2. Vị trí và mối quan hệ luật phá sản doanh nghiệp với các luật khác 2.1. Các loại hình doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì thủ tục giải quyết phá sản đều theo luật phá sản Điều 1 luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam có quy định “luật này áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản” Theo Điều 1 của nghị định số 189 - CP ngày 23-12-1994 của chính phủ về hướng dẫn thi hành luật phá sản doanh nghiệp quy định các doanh nghiệp thuộc đối tượng áp dụng luật phá sản doanh nghiệp bao gồm: - Doanh nghiệp nhà nước - Doanh nghiệp của tổ chức chính trị xã hội - Doanh nghiệp tư nhân - Công ty trách nhiệm hữu hạn - Công ty cổ phần - Doanh nghiệp có một phần vốn đầu tư nước ngoài - Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài - Hợp tác xã Trong các luật chuyên ngành ban hành sau luật phá sản doanh nghiệp nhà nước vẫn lấy luật phá sản doanh nghiệp làm luật áp dụng chung cho các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mặc dù các loại hình doanh nghiệp này có đặc điểm khác so với các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bình thường. Theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm (2001) điều 83 quy định: trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, sau khi áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà vẫn mất khả năng thanh toán thì việc phá sản doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Theo luật các tổ chức tín dụng (12/12/97) điều 100 khoản 1 quy định: trong trường hợp tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản, việc thanh lý của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp. 2.2. Pháp luật phá sản có mối quan hệ với pháp luật về giải quyết các vụ án kinh tế Xem xét những đặc điểm của thủ tục phá sản, có thể thấy thủ tục phá sản có rất nhiều điểm gần gũi với thủ tục giải quyết vụ án kinh tế theo pháp luật hiện hành, cả hai thủ tục này đều được tiến hành bởi Toà án kinh tế nằm trong hệ thống toà án nhân dân, các thẩm phán giải quyết các vụ án kinh tế cũng đồng thời là những người được giao nhiệm vụ giải quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản. Theo luật phá sản doanh nghiệp điều 4 khoản 1 quy định: Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án), Toà án nhân dân tối cao là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và theo luật định của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (16-3-1994) điều 12 quy định: toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế sau đây: - Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh - Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể công ty - Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Đối tượng áp dụng thủ tục phá sản là các doanh nghiệp, cũng là một chủ thể quan trọng và phổ biến trong các vụ án kinh tế. Thủ tục phá sản doanh nghiệp và thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đều có chung đối tượng áp dụng và có chung mục đích là giải quyết những mối quan hệ phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế là một thủ tục giải quyết riêng rẽ từng mối quan hệ cụ thể( tranh chấp trong các quan hệ hợp đồng mua bán, tín dụng, thuế, đầu tư, cổ phiếu...) phát sinh từ hoạt động củadoanh nghiệp thì thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản lại guải quyết tổng thể tất cả các mối quan hệ liên quan đến một doanh nghiệp bị làm ăn vào tình trạng phá sản. Nhìn vào một vụ việc giải quyết phá sản của doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy không chỉ đơn thuần là việc giải quyết yêu cầu đòi nợ của các chủ nợ mà còn giải quyết nhiều mối quan hệ khác (quan hệ lao động , đất đai ...), trong đó có cả những quan hệ hợp đồng, kể cả những tranh chấp mà một bên là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế giải quyết. Như vậy, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là một thủ tục đặc biệt mang tính tổng hợp trong tố tụng kinh tế và có thể coi việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là một vụ việc kinh tế được không? II/ Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp và xác định các khoản nợ 1. Xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp 1.1. Thời điểm xác định tài sản của doanh nghiệp 1.1.1. Pháp luật quy định không rõ ràng thời điểm xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp Việc xác định tài sản của doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp sẽ do tổ quản lý tài sản thực hiện sau khi hết thời hạn giửi giấy tờ đòi nợ. Giá trị tài sản của doanh nghiệp lúc này không phải là giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp vì sau khi tổ hội nghị chủ nợ, chủ nợ và doanh nghiệp bị mắc nợ có thể thông qua phương án hoà giải nhưng sau một thời gian chủ nợ lại tuyên bố phá sản doanh nghiệp vì doanh nghiệp mắc nợ vi phạm cam kết của hội nghị chủ nợ và như vậy tài sản của doanh nghiệp sẽ thay đổi sau thời gian doanh nghiệp được phép tổ chức lại hoạt động kinh doanh của mình, ngay cả trường hợp phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh không được thông qua thì trong quá trìn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn được tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát của thẩm phán. Như vậy có nghĩa là khối tài sản của doanh nghiệp sẽ thay đổi trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản có hiệu lực. Theo điều 17 của luật phá sản doanh ngiệo quy định tổ quản lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: - Lập bảng kê toàn bộ tài sản của doanh nghiệp; - Giám sát, kiểm tra việc quản lý tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp cần thiết, có quyền đề nghị thẩm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản còn lại của doanh nghiệp; - Tập hợp danh sách các chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ. Theo quy định tại điều 44 của luật phá sản, tổ thanh toán tài sản có nhiệm vụ quyền hạn sau đây : - Nhận bàn giao tài sản và các giấy tờ, tài liệu có liên quan trừ tổ quản lý tài sản Và theo khoản 4 điều 44 luật phá sản doanh nghiệp quy định. Theo quyết định của chấp hành viên, tổ thanh toán tài sản tổ chức việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp. Việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp phải có công chứng nhà nước chứng nhận. Nếu tài sản đem bán đấu giá là thiết bị đồng bộ mới bán thì phải bán đồng bộ, trừ khi không bán được đồng bộ mới bán thiết bị lẻ. Việc tổ chức bán đấu giá tài sản và giải quyết quyền sử dụng đất đai của doanh nghiệp phải tuân theo đúng pháp luật. Điều 33 khoản 2 của Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính Phủ về hướng dẫn thi hành luật phá sản, hội đồng định giá có nhiệm vụ: - Định giá toàn bộ tài sản của doanh nghiệp trước khi bán đấu giá . - Định giá tài sản đã là vật bảo đảm cho các khoản nợ vay, tài sản mà doanh nghiệp dã bán 6 tháng trước khi xử ký đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Việc định giá tài sản phá sản của doanh nghiệp tại thời điểm này có ý nghĩa trong việc phân chia tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. tuy nhiên, luật phá sản không có điều khoản nào quy định tàu sản được định giá tại thời điểm bày có phải là tài sản phá sản của doanh nghiệp hay không. Như vậy, luật phá sản và các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể về tài sản phá sản của doanh nghiệp phá sản. Điều bày dẫn đến khó khăn cho việc xác định khối tài sản còn lại của doanh nghiệp để phân chia theo quyết định tuyên bố phá sản. 1.1.2 Lựa chọn thời điểm xác định giá trị tài sản khi toàn án ra quyết định thanh toán con nợ Việc xác định tài sản phá sản của con nợ bị tuyên bố phá sản có ý nghĩa rất quan trọng đối với quyền lợi của các chủ nợ cũng như chính con nợ. Để có thể xác định tài sản phá sản của con nợ, vấn đề cơ bản nhất là phải quy định thời điểm xác định khối tài sản này vì thời điểm này vô cùng quan trọng để xác định tài sản nào thuộc khối tài sản phá sản, tài sản nào không để phân chia theo quyết định tyyên bố phá sản. Tài sản tuyên bố phá sản của con nợ bị phá sản là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hay quyền quản lý (đối với donah nghiệp nhà nước) của con nợ được xác định tại thời điểm quyết định tuyên bố phá sản có hiệu lực pháp luật. Có quan điểm cho rằng, thời điểm xác định tài sản phá sản là thời diểm con nợ bị toà án tuyên bố phá sản. Nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành, do quyết định tuyên bố phá sản chưa có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên mà còn phải chờ một thời gian luật định để các bên có thể khiếu nại về quyết định đó, nên để có thể xác định được chính xác hơn tài sản thì phải chờ đến khi quyết định này có hiệu lực pháp luật (theo quy định của luật phá sản doanh nghiệp hiện hành thì thời gian từ khi tuyên donah nghiệo bị phá sản đến khi quyết định này có hiệu lực pháp luật là 30 ngày nếu không có kháng nghị hoặc khiếu nại). Theo điều 40 của luật phá sản doanh nghiệp quy định. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ và doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có quyền gửi đơn khiếu nại, viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng ngh