Đề tài Hành vi định giá hủy diệt và ứng dụng trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam

Định giá hủy diệt là việc các doanh nghiệp có quyền lực thị trường ấn định giá bán sản phẩm quá thấp trong một khoảng thời gian đủ dài nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường hoặc (và) ngăn cản không cho các đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường. Sau khi hoàn tất mục đích ngăn cản hoặc loại bỏ, doanh nghiệp sẽ tăng giá một cách đáng kể nhằm bù đắp lại các khoản lỗ và các khoản lợi nhuận đã bỏ qua bởi mức độ cạnh tranh trên thị trường đã bị giảm[1]. Lý thuyết định giá hủy diệt ra đời từ nhận thức về cạnh tranh trong lĩnh vực giá cả giữa các doanh nghiệp. Khi giá của một sản phẩm giảm xuống sẽ làm cho giá của sản phẩm cạnh tranh khác (nếu không thay đổi về giá) trở thành cao tương đối trước nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm có mức giá thấp có được lợi thế cạnh tranh về giá nên các đối thủ còn lại bị đặt vào tình trạng hoặc phải chạy đua để giảm giá hoặc chấp nhận mất dần khách hàng với mức giá không đổi. Khi giá bán có thể gây lỗ cho đối thủ thì mức giá đó được suy đoán là có khả năng hủy diệt. Mức giá có khả năng hủy diệt đối thủ có thể là kết quả hoặc của quá trình cạnh tranh lành mạnh về giá, hoặc của hành vi định giá hủy diệt. Sẽ là cạnh tranh lành mạnh nếu các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận mà vẫn hạ giá bán hàng hóa bằng cách giảm chi phí sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp doanh nghiệp bán hàng hóa với giá thấp để đẩy giá thị trường xuống mức không thể có lãi trong một thời gian nhằm làm suy yếu hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh[2], chiến lược kinh doanh đó bị coi là định giá hủy diệt. Việc xác định khả năng hủy diệt của hành vi tập trung vào: Thứ nhất, hành vi bán hàng hóa với mức giá thấp có khả năng chi phối đến giá thị trường khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường và hành vi được thực hiện như một chiến lược kinh doanh trong một thời gian đáng kể. Quyền lực thị trường được hiểu là khả năng tác động đến giá của sản phẩm trong một giai đoạn đáng kể[3]. Thông thường, căn cứ cơ bản để xác định quyền lực thị trường là thị phần của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể chi phối giá thị trường khi nắm giữ phần lớn (cơ bản) nguồn cung hoặc nguồn cầu của thị trường. Điều này thể hiện trong quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và quan hệ cạnh tranh với đối thủ. Trong quan hệ với khách hàng, do nhu cầu của khách hàng bị phụ thuộc vào mức độ đáp ứng của doanh nghiệp nên quyền lực thị trường có thể được sử dụng như một thế mạnh hòng áp đặt mức giá mang lại lợi nhuận độc quyền mà khách hàng vẫn phải chấp nhận. Trong quan hệ với đối thủ cạnh tranh, với sức mạnh kinh tế của mình, doanh nghiệp có quyền lực thị trường có thể đặt ra mức giá thấp để thực hiện chiến lược định giá hủy diệt theo định nghĩa trên. Như vậy, điều kiện tiên quyết để việc bán sản phẩm với giá thấp trở thành định giá hủy diệt là doanh nghiệp thực hiện hành vi phải có khả năng chi phối thị trường.

doc13 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2236 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hành vi định giá hủy diệt và ứng dụng trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HÀNH VI ĐỊNH GIÁ HỦY DIỆT VÀ ỨNG DỤNG TRONG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM ) Định giá hủy diệt là việc các doanh nghiệp có quyền lực thị trường ấn định giá bán sản phẩm quá thấp… 1. Hành vi định giá hủy diệt Định giá hủy diệt là việc các doanh nghiệp có quyền lực thị trường ấn định giá bán sản phẩm quá thấp trong một khoảng thời gian đủ dài nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường hoặc (và) ngăn cản không cho các đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường. Sau khi hoàn tất mục đích ngăn cản hoặc loại bỏ, doanh nghiệp sẽ tăng giá một cách đáng kể nhằm bù đắp lại các khoản lỗ và các khoản lợi nhuận đã bỏ qua bởi mức độ cạnh tranh trên thị trường đã bị giảm[1]. Lý thuyết định giá hủy diệt ra đời từ nhận thức về cạnh tranh trong lĩnh vực giá cả giữa các doanh nghiệp. Khi giá của một sản phẩm giảm xuống sẽ làm cho giá của sản phẩm cạnh tranh khác (nếu không thay đổi về giá) trở thành cao tương đối trước nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm có mức giá thấp có được lợi thế cạnh tranh về giá nên các đối thủ còn lại bị đặt vào tình trạng hoặc phải chạy đua để giảm giá hoặc chấp nhận mất dần khách hàng với mức giá không đổi. Khi giá bán có thể gây lỗ cho đối thủ thì mức giá đó được suy đoán là có khả năng hủy diệt. Mức giá có khả năng hủy diệt đối thủ có thể là kết quả hoặc của quá trình cạnh tranh lành mạnh về giá, hoặc của hành vi định giá hủy diệt. Sẽ là cạnh tranh lành mạnh nếu các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận mà vẫn hạ giá bán hàng hóa bằng cách giảm chi phí sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp doanh nghiệp bán hàng hóa với giá thấp để đẩy giá thị trường xuống mức không thể có lãi trong một thời gian nhằm làm suy yếu hoặc loại bỏ đối thủ cạnh tranh[2], chiến lược kinh doanh đó bị coi là định giá hủy diệt. Việc xác định khả năng hủy diệt của hành vi tập trung vào: Thứ nhất, hành vi bán hàng hóa với mức giá thấp có khả năng chi phối đến giá thị trường khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường và hành vi được thực hiện như một chiến lược kinh doanh trong một thời gian đáng kể. Quyền lực thị trường được hiểu là khả năng tác động đến giá của sản phẩm trong một giai đoạn đáng kể[3]. Thông thường, căn cứ cơ bản để xác định quyền lực thị trường là thị phần của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể chi phối giá thị trường khi nắm giữ phần lớn (cơ bản) nguồn cung hoặc nguồn cầu của thị trường. Điều này thể hiện trong quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và quan hệ cạnh tranh với đối thủ. Trong quan hệ với khách hàng, do nhu cầu của khách hàng bị phụ thuộc vào mức độ đáp ứng của doanh nghiệp nên quyền lực thị trường có thể được sử dụng như một thế mạnh hòng áp đặt mức giá mang lại lợi nhuận độc quyền mà khách hàng vẫn phải chấp nhận. Trong quan hệ với đối thủ cạnh tranh, với sức mạnh kinh tế của mình, doanh nghiệp có quyền lực thị trường có thể đặt ra mức giá thấp để thực hiện chiến lược định giá hủy diệt theo định nghĩa trên. Như vậy, điều kiện tiên quyết để việc bán sản phẩm với giá thấp trở thành định giá hủy diệt là doanh nghiệp thực hiện hành vi phải có khả năng chi phối thị trường. Thứ hai, xác định sự bất hợp lý của giá bán thực tế. Trọng tâm của lý thuyết định giá hủy diệt là xác định mức giá hủy diệt để phân biệt với hành vi hạ giá để cạnh tranh lành mạnh. Theo đó, định giá hủy diệt được phát hiện từ hiện tượng giá bán của hàng hóa được đặt ra thấp một cách bất hợp lý theo phương pháp so sánh giữa giá và chi phí với giả định là nếu không có các hoàn cảnh bất thường, một doanh nghiệp chỉ tiếp tục hoạt động nếu có thể bù đắp được các chi phí sản xuất. Khi giá bán thực tế thấp hơn chi phí sản xuất thì có thể kết luận là có hành vi định giá hủy diệt và ngược lại. Việc so sánh cần cân nhắc đến bối cảnh thị trường nhằm tránh đánh đồng định giá hủy diệt với hành vi bán hàng hóa giá thấp để cạnh tranh hoặc để ứng phó với những biến động thị trường. Các lý thuyết kinh tế đặt ra những tình huống đặc biệt của việc đặt giá thấp đến mức gây lỗ nhưng không mang mục đích hủy diệt đối thủ cạnh tranh bằng nguyên tắc định giá tối đa hóa lợi nhuận theo chi phí biên và nguyên tắc đóng cửa[4]: (i) Doanh nghiệp tính toán sai lầm về sản lượng sản xuất nên chi phí biên của hàng hóa cao hơn mặt bằng giá trên thị trường. Khi đó, doanh nghiệp không thể định giá sản phẩm của họ theo chi phí bởi nếu làm như vậy sẽ mất khách hàng. Để có thể tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp buộc bán lỗ theo giá thị trường cho dù bị lỗ. (ii) Thị trường có những suy thoái như biến động về cầu, sự dư thừa về sản lượng … làm cho các doanh nghiệp trên thị trường gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm buộc họ phải xem xét lại các điều kiện sản xuất, mua bán cho phù hợp, thậm chí phải chấp nhận lỗ để giữ chân khách hàng nếu họ muốn tồn tại. Bằng nguyên tắc đóng cửa, các doanh nghiệp vẫn có thể bán hàng hóa với mức giá thấp hơn chi phí trung bình nhưng cao hơn chi phí biến đổi trong ngắn hạn để tối thiểu hóa thua lỗ[5]. Ngoài ra, việc bán sản phẩm với giá thấp hơn chi phí sản xuất đôi khi chỉ là phản ứng của doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh về giá từ các đối thủ. Sẽ không là định giá hủy diệt nếu giá bán thấp hơn chi phí sản xuất của doanh nghiệp nhưng vẫn cao hơn giá bán của đối thủ cạnh tranh hoặc chỉ là phản ứng tự vệ trước hành vi chủ động định giá thấp của đối thủ khác đã thực hiện trước đó. Từ góc độ hiệu quả, hành vi định giá hủy diệt có những tác động tích cực và mối nguy cơ cho nền kinh tế. Người tiêu dùng được hưởng lợi do mua hàng hóa với giá rẻ trong giai đoạn hành vi được thực hiện và tình trạng cạnh tranh sinh tử về giá. Tuy nhiên, khi mục đích tiêu diệt đối thủ đã đạt được, doanh nghiệp thực hiện hành vi củng cố được vị trí trên thị trường liên quan và khai thác lợi thế bằng các chiến lược bóc lột khách hàng hòng bù đắp những gì đã mất trong quá khứ. Do đó, hành vi định giá hủy diệt bị lên án không phải vì nó khiến giá của hàng hóa giảm ở hiện tại mà là những lo ngại khả năng suy giảm sản lượng và giá tăng vọt trong tương lai[6]. Tuy nhiên, các nhà kinh tế, trong đó có Jacop Viner, có xu hướng hoài nghi trước lý luận về sự cướp đoạt vì họ không tin có nhiều cơ may cướp đoạt thành công[7]. Nếu một doanh nghiệp hoàn tất chiến lược tiêu diệt đối thủ cạnh tranh và tiến hành việc nâng giá, họ có thể sẽ phải tiếp tục đối đầu với những đối thủ khác, hoặc chí ít là những đối thủ cạnh tranh mới đang có nhu cầu gia nhập thị trường. Vì thế, có luận điểm cho rằng hành vi bán hàng hóa với giá thấp cho dù có triệt tiêu đối thủ cạnh tranh song đem lại lợi ích cho người tiêu dùng nên không cần thiết phải cấm đoán. Cạnh tranh cho dù bị triệt tiêu trong ngắn hạn nhưng sẽ được hồi sinh ở tương lai khi giá bán tăng trở lại. Ngoài ra, có luận điểm mềm dẻo hơn khi cho rằng, nhiệm vụ của pháp luật là bảo đảm hiệu quả của cạnh tranh trên thị trường nên nó chỉ ngăn chặn khả năng tăng giá trong tương lai. Khi doanh nghiệp thực hiện hành vi định giá hủy diệt có cơ hội thực hiện mục đích bóc lột khách hàng thì pháp luật mới cần can thiệp để loại bỏ hành vi. 2. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam về hành vi định giá hủy diệt 2.1. Thỏa thuận nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh Khoản 7 Điều 8 của Luật Cạnh tranh quy định về thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận. Điều 20 của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 của Chính phủ (Nghị định 116) quy định việc các doanh nghiệp thống nhất mua, bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường là một trong những dạng của thỏa thuận này. Theo đó, có hai dấu hiệu cấu thành thỏa thuận giá để hủy diệt đối thủ là: Thứ nhất, phải có sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp tham gia về việc ấn định giá nhằm loại bỏ doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Thứ hai, nội dung của thỏa thuận là giá mua, bán hàng hóa, dịch vụ được các doanh nghiệp áp đặt ở mức đủ để buộc doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui khỏi thị trường. Vấn đề quan trọng là xác định mức giá đủ để tiêu diệt đối thủ trong các thỏa thuận trên. Đáng tiếc là, cho đến nay, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam chưa làm rõ điều này. Xử lý đối với thỏa thuận loại bỏ đối thủ cạnh tranh nói chung, Luật Cạnh tranh sử dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối (cấm mặc nhiên). Chỉ cần chứng minh sự tồn tại của thỏa thuận nói trên là có thể xử lý theo quy định của pháp luật mà không cần cân nhắc đến thị phần của các doanh nghiệp tham gia và không áp dụng cơ chế miễn trừ[8]. Có thể nói, Luật Cạnh tranh có thái độ rất nghiêm khắc đối với thỏa thuận này. Theo chúng tôi, Điều 20 của Nghị định 116 chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm có tính khái quát, rất nhiều từ ngữ và căn cứ pháp lý để xác định thỏa thuận nói trên chưa được làm rõ. Ngoài ra, Điều 9 của Luật Cạnh tranh không sử dụng tiêu chí thị phần kết hợp để xử lý các thỏa thuận tại Khoản 6, 7, 8 của Điều 8 (là các thỏa thuận bị cấm tuyệt đối, bao gồm: thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận; thông đồng trong đấu thầu) giống như các thỏa thuận khác. Vì vậy, việc hiểu cặn kẽ, thống nhất các quy định của pháp luật để áp dụng Luật Cạnh tranh hiệu quả là không đơn giản. Có thể chứng minh nhận định này từ việc làm rõ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh là thỏa thuận dọc hay thỏa thuận ngang theo lý thuyết cạnh tranh[9]. Với các thỏa thuận không bị cấm theo nguyên tắc tuyệt đối, câu hỏi này đã được trả lời bằng tiêu chí về thị phần kết hợp. Nhưng với thỏa thuận bị cấm tuyệt đối thì đây vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi. Việc phân định thỏa thuận dọc hay thỏa thuận ngang có ảnh hưởng lớn đến thái độ của pháp luật. Pháp luật của các nước chỉ cấm thỏa thuận dọc trong một số ít trường hợp như thỏa thuận áp đặt giá bán lại … với điều kiện một trong những doanh nghiệp tham gia có quyền lực thị trường. Trong khi đó, vấn đề này không đặt ra trong các thỏa thuận ngang[10]. Như vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã áp dụng lý thuyết về định giá hủy diệt cho thỏa thuận loại bỏ đối thủ cạnh tranh; song, dường như sự tiếp nhận chưa trọn vẹn và thấu đáo. Như đã phân tích, hai nội dung không thể thiếu của lý thuyết về định giá hủy diệt là sự bất hợp lý của mức giá sản phẩm và khả năng chi phối thị trường của doanh nghiệp thực hiện hành vi. Việc sử dụng nguyên tắc cấm tuyệt đối cho thấy pháp luật Việt Nam không quan tâm đến khả năng chi phối thị trường của các doanh nghiệp tham gia loại thỏa thuận này. Sự bất hợp lý có thể nảy sinh khi các doanh nghiệp có thị phần nhỏ bé trên thị trường liên minh đặt ra mức giá bán thấp hơn giá thành của sản phẩm để cùng nhau chèo chống trước những biến động của thị trường hoặc trước sức ép cạnh tranh từ một vài đối thủ lớn hơn để tìm kiếm cơ hội tồn tại trong ngắn hạn. Dước góc độ hiệu quả, sự liên kết của nhiều doanh nghiệp chưa đủ tạo ra khả năng chi phối thị trường thì việc đặt giá bán thấp hoặc giá mua cao khó chi phối diễn biến giá trên thị trường chung. Khi đó, khả năng loại bỏ doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận còn phụ thuộc vào tương quan về năng lực cạnh tranh giữa sức mạnh chung do sự liên kết đem lại và đối thủ. Việc cấm đoán mà không cân nhắc, tính toán đến hiệu quả hoặc khả năng hủy diệt thực tế là cách tiếp cận thiếu khôn ngoan. 2.2. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường[11] 2.2.1. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp Theo Điều 11, 12 của Luật Cạnh tranh ta thấy, Luật này sử dụng căn cứ duy nhất để xác định vị trí thống lĩnh là thị phần của doanh nghiệp. Trong khi đó, trong các vụ việc về định giá hủy diệt, để xác định quyền lực thị trường, pháp luật của các nước EU, Hoa Kỳ, Canađa … không chỉ sử dụng thị phần làm căn cứ duy nhất mà còn phân tích bối cảnh khách quan của thị trường như sự tồn tại của các rào cản gia nhập[12]… Đó là: các rào cản thể chế (các quy định của pháp luật, chính sách quản lý kinh tế của nhà nước …); điều kiện về quy mô đầu tư tối thiểu để hoạt động hiệu quả; chi phí chìm quá lớn… Các rào cản này liên quan đến việc gia nhập có hiệu quả vào một thị trường nào đó, bao gồm tiềm năng gia nhập của doanh nghiệp mới, sự quay trở lại của doanh nghiệp đã bị loại bỏ hoặc khả năng mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp hiện tại. Một khi các nhân tố khách quan trên thị trường làm cho việc gia nhập trở nên khó khăn thì khả năng bù lỗ trong chiến lược hủy diệt có môi trường để thực hiện và ngược lại. Cách tiếp cận nói trên bảo đảm tính hiệu quả về kinh tế trong việc điều chỉnh của pháp luật đối với định giá hủy diệt. Người tiêu dùng dường như sẽ luôn được bảo vệ bởi khi bán hàng với giá thấp bất hợp lý họ đã được hưởng lợi và nếu doanh nghiệp không thể định giá độc quyền sau khi hủy diệt đối thủ, người tiêu dùng cũng không bị trả giá trong tương lai. Bằng những so sánh trên, chúng tôi cho rằng, khi áp dụng những quy định về việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường trong pháp luật Việt Nam vào các vụ việc về định giá hủy diệt, chúng ta chỉ xác định được khả năng chi phối giá trên thị trường (kéo theo nó là khả năng hủy diệt đối thủ) mà chưa làm rõ năng lực bóc lột khách hàng sau khi việc loại bỏ đối thủ hoàn tất. Do đó, việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng dường như chưa được đặt ra trong pháp luật Việt Nam về định giá hủy diệt. 2.2.2. Xác định mức giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ loại bỏ đối thủ cạnh tranh Theo Điều 23 của Nghị định 116 thì, trừ những trường hợp đặc biệt, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng với mức giá thấp hơn tổng các chi phí sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc giá mua hàng hoá để bán lại; chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật. 2.2.2.1 Cơ sở thứ nhất, xác định giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ. Giá bán hàng hoá, dịch vụ là giá bán thực tế của doanh nghiệp trong các giao dịch với khách hàng.  Có lẽ, việc xác định giá bán hàng hóa sẽ đơn giản nếu doanh nghiệp bán toàn bộ sản phẩm ở cùng một khâu phân phối (hoặc chỉ bán lẻ hoặc chỉ bán sỉ). Tuy nhiên, sẽ gặp nhiều khó khăn nếu doanh nghiệp tổ chức tiêu thụ sản phẩm bằng nhiều cấp tiêu thụ khác nhau như vừa trực tiếp bán lẻ, vừa bán cho các đại lý … Luật Cạnh tranh và Nghị định 116 chưa có quy định để giải quyết tình huống này.Thật ra, pháp luật không thể chỉ sử dụng giá bán lẻ hay bán sỉ cho mọi trường hợp vì hành vi định giá hủy diệt có thể được thực hiện ở bất cứ cấp nào trong quá trình kinh doanh, phân phối. Để giải quyết trường hợp trên, có hai nguyên tắc cần được triệt để tôn trọng là: (i) mức giá bán được sử dụng để điều tra về hành vi phải là giá bán thực tế của doanh nghiệp bị điều tra. Không thể sử dụng giá thị trường hay giá cả suy định để xác định về hành vi vi phạm nếu như đó không là giá bán thực của doanh nghiệp bị điều tra. (ii) Mức giá được sử dụng phải là giá áp dụng cho các khách hàng giao dịch trực tiếp với họ. Trong trường hợp doanh nghiệp vừa bán lẻ, vừa bán sỉ sản phẩm và với mỗi nhóm khách hàng họ áp dụng mức giá riêng, cơ quan thi hành sẽ sử dụng độc lập từng mức giá với từng nhóm khách hàng để điều tra về sự vi phạm mà không tính theo nguyên tắc bình quân của các mức giá. Việc xác định chính xác giá bán của hàng hoá, dịch vụ sẽ gặp nhiều khó khăn khi có sự khác biệt về giá cả giữa các khu vực trong cùng một thị trường địa lý hoặc có sự chênh lệnh về mức giá bán ở những thời điểm khác nhau thuộc thời kỳ điều tra. Nếu chỉ dựa vào một vài giao dịch nào đó để tính toán là không hợp lý, bởi giá bán thực tế phải phản ánh được chiến lược mở rộng thị trường bằng cách tiêu diệt đối thủ chứ không phải là những mức giá tức thời ở một thời điểm nào đó trong quá trình kinh doanh. Trong trường hợp có sự chênh lệnh về giá bán giữa các tiểu vùng thị trường và các thời điểm khác nhau trong cùng giai đoạn cần điều tra thì, việc cân nhắc và tính toán một mức giá bình quân gia quyền là cần thiết nhằm tạo lập một giá bán căn bản, hợp lý làm cơ sở để tiến hành so sánh giá. Vấn đề này Luật Cạnh tranh của Việt Nam chưa quy định chi tiết. Pháp luật của Canađa trong Điều 50 (1) b và c của Luật Cạnh tranh và trong các nguyên tắc hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh trong việc bán phá giá đã đặt ra nguyên tắc xác định giá bán bình quân khi điều tra về việc định giá dưới chi phí sản xuất[13]. Muốn chứng minh được hành vi định giá tiêu diệt đối thủ, trước tiên phải chứng minh được mức giá bán dưới chi phí bình quân phải nằm trong một chính sách cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy, cần cân nhắc về mức thấp của giá, phạm vi không gian và thời gian áp dụng để xác định sự vi phạm. Trong khu vực thị trường và ở khoảng thời gian đó, nếu có sự thay đổi hoăc sự khác nhau về giá, người ta sẽ cân nhắc đến khả năng áp dụng cách tính giá bình quân. 2.2.2.2 Cơ sở thứ hai, xác định giá thành sản xuất toàn bộ. Giá thành toàn bộ là mức giá cơ bản được cấu thành từ các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông … của sản phẩm và được các doanh nghiệp sử dụng làm các căn cứ xác định giá bán hàng hoá, dịch vụ của mình. Trong việc xác định hành vi định giá hủy diệt, giá thành toàn bộ được sử dụng như là mức chuẩn của sự công bằng và hợp lý. Nếu doanh nghiệp chủ đích bán hàng hoá, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ thì hành vi ấy bị coi là không bình thường do chưa đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra để có được sản phẩm. Để tính toán giá thành toàn bộ, Nghị định 116 (Điều 23, 24, 25, 26) đặt ra công thức giá thành toàn bộ là tổng các chi phí sau: chi phí cấu thành giá thành sản xuất hàng hoá, dịch vụ hoặc giá mua hàng hoá để bán lại; và chi phí lưu thông hàng hoá, dịch vụ. Trong việc tính toán, có một số khó khăn khi xác định giá thành toàn bộ, đó là: Thứ nhất, theo Luật Cạnh tranh, hành vi định giá hủy diệt được áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ. Việc áp dụng đối với hành vi định giá cung ứng dịch vụ dưới chi phí toàn bộ để loại bỏ đối thủ đặt ra khó khăn trong việc điều tra về hành vi. Những khó khăn xuất phát từ khái niệm dịch vụ và quá trình cung ứng dịch vụ. Do tính chất “vô hình”, khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng, phức tạp của các loại dịch vụ mà cho đến nay, chưa có một định nghĩa về dịch vụ được chấp nhận trên phạm vi toàn cầu. Vì vậy, việc xác định chi phí cung ứng đối với một loại dịch vụ của doanh nghiệp cũng như xác định chi phí lành mạnh đối với việc cung ứng dịch vụ để so sánh với giá cung ứng thực tế là không đơn giản, chưa nói đến có nhiều trường hợp là không thể. Thứ hai, việc điều tra và thu thập các thông số về tài chính kế toán, chi phí sản xuất của doanh nghiệp rất phức tạp. Chưa kể những thông số đó không thực sự lành mạnh do hoạt động kế toán của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết về sự minh bạch, tính trung thực. Bên cạnh đó, trong cấu trúc chi phí toàn bộ của sản phẩm, bộ phận chi phí liên quan đến lưu thông của sản phẩm hoặc của nguyên vật liệu để phục vụ cho sản xuất ra sản phẩm luôn có độ co giãn cao làm cho việc điều tra về chi phí toàn bộ gặp nhiều trở ngại ảnh hưởng đến tính chính xác trong việc xác định hành vi hạn chế cạnh tranh về định giá hủy diệt. Đặc biệt, khi sản phẩm bị điều tra chỉ là một trong nhiều sản phẩm được sản xuất và phân phối bởi doanh nghiệp thì, công việc bóc tách các phần chi phí có liên quan đến sản phẩm trong tổng chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là không đơn giản. 2.2.2.3 So sánh giá để xác định hành vi. Theo Luật Cạnh tranh của Việt Nam, ý định và khả năng loại bỏ đối thủ của định giá hủy diệt được chứng minh từ hiện thực là giá bán thấp hơn giá thành của sản phẩm trừ một số trường hợp được quy định tại Khoản 2, Điều 23 của Nghị định 116. Về vấn đề này, pháp luật của các quốc gia khác như Canađa và Hoa Kỳ có cách tiếp cận khác. Họ đưa ra các căn cứ xác định hành vi và phân tích mục đích loại bỏ đối thủ. Theo đó, hai mức chi phí căn bản làm cơ sở xác định hiện t
Luận văn liên quan