Đề tài Một số kinh nghiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi ngữ văn trung học phổ thông

Ở thời đại nào cũng vậy, người tài đều có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam ta, điều đó lại càng được khẳng định rõ nét qua lịch sử của dân tộc. Người xưa từng nói “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên ”(Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung.) Tiếp nối truyền thống ấy, ngày nay Đảng và Nhà Nước ta luôn coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, luôn xác định “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là mục tiêu quan trọng mà ngành giáo dục hướng tới.

pdf23 trang | Chia sẻ: lecuong1825 | Lượt xem: 1921 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kinh nghiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi ngữ văn trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG ĐỘI TUYỂN HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Người thực hiện: Hoàng Thị Chiên Chức vụ: Giáo viên SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn THANH HOÁ NĂM 2013 2 MỤC LỤC TRANG A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 4 I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 4 II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 4 II.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với giáo viên khi thực hiện đề tài 4 II.2.Thực trạng chung về việc bồi dưỡng học sinh giỏi và số lượng, chất lượng giải học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài. 5 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÔI ĐÃ VÀ ĐANG LÀM ĐỂ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ 6 III.1. Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình, đam mê với nghề nghiệp 6 III.2. Chủ động phân loại học sinh, phát hiện ra những học sinh có khả năng về môn văn 7 III.3. Tiến hành tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi. 8 III.4. Lập kế hoạch bồi dưỡng đội tuyển và phân công người dạy rõ ràng 8 III.5. Sưu tầm, giới thiệu các tài liệu tham khảo yêu cầu học sinh tự học, tự tìm hiểu ở thư viện và nhiều nguồn khác 8 III.6. Giáo viên vừa cung cấp, vừa yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. 9 III.7. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng 11 III.8. Chọn lọc một số đề thi qua các kì thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hoá, tỉnh bạn, kì thi quốc gia qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, nắm yêu cầu đề ra, định hướng lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. 15 III.9. Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định.Giáo viên chấm bài, giúp học sinh phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm. 16 III.10. Giáo viên gần gũi, quan tâm đến học sinh, thường xuyên động viên học sinh bằng những lời chân thành, khích lệ các em cố gắng. 17 III.11. Gặp gỡ và truyền đạt một số bí quyết để học sinh có thể đạt giải 18 IV. KẾT QUẢ 19 C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 3 A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Ở thời đại nào cũng vậy, người tài đều có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam ta, điều đó lại càng được khẳng định rõ nét qua lịch sử của dân tộc. Người xưa từng nói “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên ”(Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung.) Tiếp nối truyền thống ấy, ngày nay Đảng và Nhà Nước ta luôn coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, luôn xác định “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là mục tiêu quan trọng mà ngành giáo dục hướng tới. Bộ giáo dục và đào tạo đã có rất nhiều chủ trương mới về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Đó là chú trọng tiếp tục xây dựng hệ thống các trường chuyên một cách hoàn thiện hơn; khuyến khích và tôn vinh những học sinh có thành tích cao trong học tập; các học sinh có năng khiếu được học với chương trình nâng cao phù hợp với năng lực và nguyên vọng của các em; những năm trước, học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia từ giải ba trở lên còn được tuyển thẳng vào Đại học theo nguyện vọng... Chính vì vậy mà có thể nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác mũi nhọn và trọng tâm của ngành giáo dục. Nó có tác dụng tích cực, thiết thực và mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên và kích thích tinh thần say mê học tập của học sinh, nâng cao chất lượng và khẳng định uy tín, thương hiệu nhà trường, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung. 2. Năm nào cũng vậy, Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hoá đều tổ chức kì thi chọn học sinh giỏi các cấp, trong đó có thi học sinh giỏi THPT. Kì thi này nhằm lựa chọn và tôn vinh những học sinh có thành tích cao trong các môn học. Đồng thời, kết quả của cuộc thi này cũng là một căn cứ , một kênh thông tin quan trọng để Sở giáo dục và đào tạo đánh giá chất lượng giáo dục của mỗi trường học trong phạm vi toàn tỉnh. Vì thế, hàng năm, trường THPT Triệu Sơn 2 vẫn coi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thầy và trò. 3. Nghề dạy học là một nghề “Cao quý nhất trong những nghề cao quí nhất”. Người dạy học không chỉ dạy chữ mà còn dạy người. Thầy cô giáo vừa là người giúp các em lĩnh hội tri thức và vân dụng nó một cách linh hoạt vào cuộc sống, vừa chính là những kỹ sư xây đắp tâm hồn bao thế hệ học sinh. Người giáo viên dạy môn Ngữ văn càng có nhiều ưu thế nhất trong việc này. Niềm vui sướng đối với người thầy người cô là đào tạo ra những học sinh học giỏi, chăm ngoan, thành đạt, có đạo đức, có nhân cách tốt đẹp, biết cư xử đúng với chuẩn mực đạo lí dân tộc... Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi . Để có được học sinh giỏi thì ngoài năng lực, tố chất 4 của học sinh còn cần có công lao bồi dưỡng của người thầy. Là một giáo viên Ngữ văn đứng lớp giảng dạy gần mười năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học, tôi đã cảm nhận được điều đó. 4. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay trên sách báo, trong các bản tham luận, các sáng kiến kinh nghiệm...bày tỏ những băn khoăn, trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt và mang lại hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là: Làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất trong khoảng thời gian hơn mấy tháng ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy hết năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong ba giờ ấn định ? Làm thế nàơ để công lao vất vả của thầy và trò không bị uổng phí ? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ? Mối băn khoăn đó luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm qua. 5. Tôi đã tìm hiểu và tham khảo nhiều sách báo, tìm kiếm trên in-ter-net để thu thập những kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi THPT. Tôi đã đọc được những kinh nghiệm quí báu của thầy Đỗ Nguyên Thương ở Sở Giáo dục và đào tạo Phú Thọ trên báo Văn học và tuổi trẻ số 7+8+9 năm 2012, những kinh nghiệm của thầy Lê Đức Đồng ở Sở giáo dục và đào tạo Sóc Trăng ( trên báo Dân trí)... nhưng nhìn chung chưa thấy có nhiều chuyên đề trình bày thật sự hệ thống, thấu đáo, đầy đủ về vấn đề này.Và đặc biệt trong những tài liệu đó chưa có một số suy nghĩ giống như cá nhân tôi trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi. Với tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành; cùng với việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học; cùng với cả niềm mong ước và hy vọng là được trao đổi cùng đồng nghiệp, nhận được sự góp ý chân thành của những người trong nghề, và góp một phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng giáo dục... tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài : Một số kinh nghiệm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn trung học phổ thông. 5 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao, khó khăn, nặng nề nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc biệt - khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ văn chương, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết bài ( nhiều em có thể viết bài gửi các báo, có những đề tài nghiên cứu phù hợp với lứa tuổi). Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp, thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng. Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trau dồi không ngừng nghỉ, cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc. Qua một số năm bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi (chủ yếu là học sinh lớp 12), tôi đã đúc rút ra một số kinh nghiệm, dù chỉ thực hiện tập trung trong mấy tháng ít ỏi mà có thể có được những thành công nhất định. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn thiết tha là được trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, chia sẻ, học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ; góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và hiệu quả học tập của học sinh nói chung. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm . II. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI II.1. Những thuận lợi và khó khăn đối với giáo viên khi thực hiện đề tài. Khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định. II.1.1. Thuận lợi: - Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài: + Là một giáo viên nhiệt tình và tâm huyết, tôi thường xuyên nghiên cứu giảng dạy, dành nhiều thời gian để suy ngẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. + Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi dưỡng. Vì thế qua từng năm công tác kinh nghiệm giảng dạy cũng được tích luỹ phong phú hơn. - Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài: + Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi; đồng nghiệp nhiệt tình, hỗ trợ đắc lực trong giảng dạy... II.1.2. Khó khăn: 6 - Chất lượng đầu vào (lớp 10) không cao, ít có những học sinh đam mê và có tư chất văn chương thực sự . - Tài liệu, sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng. - Do xu hướng lựa chọn nghề nghiệp gần đây của xã hội mà tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao đối với môn Ngữ văn ( Bởi vì môn Ngữ văn trong nền kinh tế thị trường có đầu ra khá thấp so với các môn tự nhiên, điều kiện và cơ hội xin việc làm rất khó đối với những ngành có bộ môn Ngữ văn). Học sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển tự nhiên, nhiều em học được văn nhưng lại gặp sự phản đối từ gia đình... - Chất lượng đội tuyển không đồng đều, áp lực trong việc phải có nhiều giải và đạt giải cao... II.2. Thực trạng về việc bồi dưỡng học sinh giỏi và số lượng, chất lượng giải học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài. Tôi bắt đầu công tác giảng dạy môn Ngữ văn vào tháng 10 năm 2004 tại trường THPT Quan Hoá, đến tháng 8 năm 2008 tôi chuyển công tác về trường THPT Triệu Sơn 2. Tính đến nay tôi cũng đã dạy học năm thứ chín. Trong thời gian dạy học tại trường THPT Quan Hoá tôi cũng đã có hai năm học được giao trách nhiệm chính trong việc bồi duỡng học sinh giỏi. Tôi cũng đã có nhiều cố gắng song hiệu quả công việc chưa cao. Kết quả cụ thể là: + Năm học 2005 - 2006: đội tuyển gồm 03 em nhưng không đạt một giải nào. + Năm học 2006 - 2007: đội tuyển 02 em thì có một em đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Tại trường THPT Triệu Sơn 2, những năm học từ 2006 - 2007 trở về trước, số lượng giải học sinh giỏi văn hàng năm cũng khá thấp, dao động từ 2/10 đến 4/10 học sinh. Từ năm học 2007 - 2008 đến nay, sau khi tôi và một số đồng nghiệp áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào đội tuyển, học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Số lượng và chất lượng giải đều tăng lên ( Sẽ chứng minh ở phần kiểm nghiệm). Đó là điều vui mừng không thể nói hết bằng lời. 7 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÔI ĐÃ VÀ ĐANG LÀM ĐỂ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI CÓ HIỆU QUẢ Muốn bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi đạt kết quả cao, theo tôi cần phải chú ý đến rất nhiều yếu tố: đó là có sự chỉ đạo kịp thời, sát sao, sự quan tâm sâu sắc từ phía Ban giám hiệu và các tổ chức trong nhà trường ; là sự ủng hộ, tạo điều kiện của gia đình học sinh, của giáo viên chủ nhiệm... nhưng quan trọng nhất vẫn là hai yếu tố giáo viên đứng lớp và học sinh. Biết rằng phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô cùng phong phú, khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ chuyên đề này tôi chỉ xin tập trung vào những việc mà bản thân tôi đã và đang làm cũng như những điều tôi chiêm nghiệm được qua thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi. III.1. Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình, đam mê với nghề nghiệp Như trên đã nói, thực tế dạy học văn ngày nay gặp rất nhiều rào cản, mà những rào cản đó xuất phát từ nhiều phía: có thể là do chương trình quá nặng, do giáo viên dạy kém nhiệt tình, tâm huyết, hoặc do xu hướng, thực trạng của nền kinh tế thị trường đã khiến nhiều gia đình định hướng cho con em họ không theo những môn khoa học xã hội...trước khá nhiều bất lợi như thế, người giáo viên phải làm thế nào để dạy tốt môn văn và khiến học sinh yêu thích, say mê? Đó là câu hỏi làm trăn trở mỗi trái tim, đánh động lương tâm nghề nghiệp của biết bao thầy cô và cả những nhà quản lí giáo dục. Cá nhân tôi nhận thấy, muốn làm cho học sinh yêu thích môn Ngữ văn, nhất là trong thời điểm nhạy cảm này, điều trước tiên là người giáo viên dạy văn phải luôn giữ được ngọn lửa đam mê của tình yêu nghề nghiệp và thổi bùng ngọn lửa ấy vào các em học sinh. Người giáo viên phải thật sự yêu bộ môn văn và xem việc giảng dạy là trách nhiệm, sứ mệnh cao cả, vinh quang.Bởi vì việc thầy cô yêu nghề, yêu môn văn sẽ là tiền đề tốt nhất để động viên, khơi gợi hứng thú học tập của học sinh; đó cũng là động lực để thầy cô cố gắng tìm tòi, suy ngẫm, tìm ra những phương pháp hợp lí, phù hợp nhất đối với tưng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu quả, làm cho các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương. Thật vậy, kinh nghiệm quí giá này tôi rút ra được sau năm học 2006 – 2007, lúc đó tôi còn dạy học ở THPT Quan Hoá. Thật ra, nói một cách khách quan, chất lượng học sinh miền núi bao giờ cũng có những hạn chế nhất định so với học sinh miền xuôi. Vì thế mà trong các kì thi, nhất là thi học sinh giỏi toàn tỉnh thường không có giải hoặc giải không cao. Tuy nhiên lí do chính là do bản thân tôi chưa có nhiều kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh. Năm học 2005 - 2006, đội tuyển văn của trường THPT Quan Hoá rất ít vì không có nguồn từ trước đó. Khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi, 8 tôi không cho thi mà trực tiếp chọn luôn 03 học sinh ( căn cứ vào kết quả và năng lực của các em trên lớp). Có thể nói là tôi đã “bắt cóc” ba em vào đội tuyển.Tôi hướng dẫn cho học sinh tự học, tôi đã dạy một số chuyên đề nhưng cũng không hết được vấn đề cơ bản. Tôi cũng không tự tin là học sinh của mình có thể đạt giải, vì từ trước tới thời điểm đó chưa có một học sinh nào đạt giải học sinh giỏi tỉnh môn văn. Hơn nữa tôi nghĩ “Học sinh của mình xuất phát điểm rất thấp, có dạy thì cũng không thể tiến bộ vượt bậc được, làm sao có thể đọ sức được với những học sinh miền xuôi giỏi giang, lại học ngày học đêm?”. Vì thế, nhiều lúc lòng nhiệt tình và sự quyết tâm của tôi không còn nữa. Kết quả năm đó không em nào đạt giải. Đến năm học 2006 – 2007, tôi tiếp tục dạy lớp 12 và có nhiệm vụ bồi dưỡng đội tuyển. Năm đó tôi chỉ chọn 02 học sinh là Phạm Văn Long và Nguyễn Hà Phương, cả hai em đều dân tộc Thái. Tôi đã động viên các em rất nhiều để khích lệ tinh thần, và ba cô trò đều cố gắng (phần vì trách nhiệm nặng nề, phần vì trong thâm tâm tôi vẫn mong học sinh của mình có thể đạt giải). Có khi học sinh phải học cả ban đêm. Tôi giao bài tập cho các em viết rồi đọc, sửa chữa...kết quả năm đó em Hà Phương đạt giải khuyến khích cấp tỉnh. Niềm vui vỡ oà trong tôi. Tôi nhận ra rằng không có gì là không thể, nếu mình nhiệt tình, biết động viên học sinh và luôn khát khao chiến thắng thì sẽ góp phần quan trọng đem lại thành công. Dù rằng kết quả còn vô cùng khiêm tốn nhưng nó là động lực giúp tôi bước tiếp hành trình gian nan của mình. Ngày nay, ngày càng nhiều những phương pháp, kĩ thuật dạy học mới ra đời, các thầy cô giáo có thể tham khảo nhiều cách thức khác nhau và áp dụng vào công tác giảng dạy. Tuy nhiên dù sử dụng phương pháp nào đi nữa thì thầy cô cũng chỉ có thể thành công khi chủ động được kiến thức và thật sự tâm huyết với nghề. III.2. Chủ động phân loại học sinh, phát hiện ra những học sinh có khả năng về môn văn Đây là công việc mà tôi cũng như các đồng nghiệp trong tổ Văn trường THPT Triệu Sơn 2 đã và đang làm để có thể phát hiện và lựa chọn được những học sinh có tư chất, những ứng viên vào đội tuyển. Để có được những học sinh giỏi văn trong đội tuyển của nhà trường, trong quá trình dạy tôi luôn chú ý để tìm ra những hạt nhân sáng giá nhất. Đầu tiên, tôi chú ý đến những em có đầu vào lớp 10 cao hơn những em khác ( từ 7 điểm trở lên). Sau đó tôi theo dõi quá trình học tập lớp 10, 11 của các em qua các điểm kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, qua kết quả thi học sinh giỏi trường (nếu có), rồi gặp gỡ, động viên...để tạo nguồn cho đội tuyển. Bằng việc làm này, hằng năm tôi và đồng nghiệp đã lựa chọn được một số học sinh có tố chất, yêu thích môn văn...để chuẩn bị cho việc thành lập đội tuyển chính thức khi các em học lớp 12. Ví dụ năm học 2008 - 2009 tôi chọn được 02 em ngay từ lớp 10 đều có lòng đam mê và tố chất học văn là Lê Thị Huyền và Mai Thị Lạng ( lớp 10A5). Cả hai em này đều trở thành thành viên đội tuyển 9 học sinh giỏi năm học 2010 - 2011, đều đạt giải cao và đậu Đại học với số điểm môn văn là 8,0. III.3. Tiến hành tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi. Tuyển chọn đội tuyển học sinh giỏi là khâu quan trọng bậc nhất quyết định chất lượng đội tuyển.Vì thế từ năm học 2008 – 2009, khi được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi ( cùng với một đồng nghiệp nữa), tôi rất chú trọng việc này. Làm thế nào lựa chọn được những em học sinh yêu và đam mê văn học? Làm sao chọn lựa được những em có tư chất tốt và siêng năng, cần cù luyện tập để gặt hái được những kết quả tốt nhất? Những câu hỏi ấy cứ làm tôi trăn trở mãi. Và tôi cùng với đồng nghiệp đã tiến hành lựa chọn đội tuyển chính thức bằng cách: cho học sinh đăng kí dự thi tuyển, sau đó tiến hành thi chọn rất nghiêm túc, chặt chẽ, theo cấu trúc đề học sinh giỏi. Tôi chấm và chọn ra những bài viết đạt từ 10,0 điểm trở lên ( thang điểm 20). Tiếp tục dạy một thời gian ngắn (2 tuần), rồi cho thi tiếp vòng 2, chọn lấy 15 em theo thứ tự điểm từ cao xuống thấp. Tôi lại dạy 2 tuần nữa, chọn ra 12 học sinh. Cuối cùng chọn 10 học sinh trong đội tuyển chính thức. Lúc này khoảng cuối tháng 11, còn khoảng hơn 3 tháng là đến kì thi. Chúng tô
Luận văn liên quan