Đề tài Nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính

Một trong những vấn đề lớn hiện nay là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”.Hiệu ứng nhà kính đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp đến Trái Đất với những tác động mà nó gây ra.Từ việc thay đổi khí hậu dẫn đến sự thay đổi rõ rệt về hệ sinh thái, theo đó con người cũng chịu ảnh hưởng .Hiệu ứng nhà kính không chỉ tác động đến Trái Đất vào thời điểm hiện tại mà nó còn kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai.Lý do em chọn đề tài “Hiệu ứng nhà kính” chính là với mục đích đem lại cái nhìn cụ thể hơn về vấn đề đang được quan tâm này.Nội dung đề tài sẽ trình bày rõ khái niệm Hiệu ứng nhà kính , nguyên nhân và ảnh hưởng của nó tới Trái Đất như thế nào, đi cùng đó là những biện pháp để hạn chế sự gia tăng Hiệu ứng nhà kính.

doc22 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 14191 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguyên nhân gây hiệu ứng nhà kính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Một trong những vấn đề lớn hiện nay là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”.Hiệu ứng nhà kính đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng trực tiếp đến Trái Đất với những tác động mà nó gây ra.Từ việc thay đổi khí hậu dẫn đến sự thay đổi rõ rệt về hệ sinh thái, theo đó con người cũng chịu ảnh hưởng .Hiệu ứng nhà kính không chỉ tác động đến Trái Đất vào thời điểm hiện tại mà nó còn kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến tương lai.Lý do em chọn đề tài “Hiệu ứng nhà kính” chính là với mục đích đem lại cái nhìn cụ thể hơn về vấn đề đang được quan tâm này.Nội dung đề tài sẽ trình bày rõ khái niệm Hiệu ứng nhà kính , nguyên nhân và ảnh hưởng của nó tới Trái Đất như thế nào, đi cùng đó là những biện pháp để hạn chế sự gia tăng Hiệu ứng nhà kính. I .KHÁI NIỆM HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH: Hiệu ứng nhà kính , xuất phát từ Effet de serre trong tiếng Pháp, do nhà toán học người Pháp Jean Baptiste Joseph Fourier lần đầu tiên đặt tên vào năm 1824 thông qua một vụ nổ mạnh trong khí quyển làm nhiệt độ của một vùng tăng lên. Năm 1827, Jean Fourier đưa ra nguyên lý giải thích hiện tượng hiệu ứng nhà kính gây được sự quan tâm lớn của giới khoa học. Hiệu ứng nhà kính dùng để chỉ hiệu ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không gian bên trong dẫn đến việc sưởi ấm toàn bộ không gian bên trong chứ không phải chỉ ở những chỗ được chiếu sáng Qua nghiên cứu, các nhà khoa học giải thích : Hiệu ứng nhà kính là hiệu ứng làm cho không khí của Trái Đất nóng lên do bức xạ sóng ngắn của Mặt Trời có thể xuyên qua tầng khí quyển chiếu xuống mặt đất, mặt đất hấp thụ nóng lên lại bức xạ sóng dài vào khí quyển để CO2 hấp thu làm cho không khí nóng lên. CO2 trong khí quyển giống như một tầng kính dày bao phủ Trái Đất, làm cho Trái Đất không khác gì một nhà kính lớn. Theo tính toán, nếu không có lớp khí quyển,nhiệt độ trung bình ở lớp bề mặt Trái Đất sẽ xuống tới -180C, nhưng nhiệt độ trung bình thực tế là 150C, có nghĩa là hiệu ứng nhà kính đã làm cho Trái Đất nóng lên 330C Người ta phân biệt Hiệu ứng nhà kính thành 2 khái niệm cụ thể: Hiệu ứng nhà kính khí quyển: Các tia bức xạ sóng ngắn của Mặt Trời xuyên qua bầu khí quyển đến mặt đất và được phản xạ trở lại thành các bức xạ nhiệt sóng dài.Một số phân tử trong bầu khí quyển , trước hết là CO2 và hơi nước có thể hấp thụ những bức xạ nhiệt này và thông qua đó giữ hơi ấm lại trong bầu khí quyển .Hàm lượng ngày nay của khí CO2 vào khoảng 0,036% đã đủ để tăng nhiệt độ thêm khoảng 30OC.Nếu không có hiệu ứng nhà kính tự nhiên này , nhiệt độ của chúng ta chỉ vào khoảng -180C. Ở thời kỳ đầu tiên của lịch sử Trái Đất , các điều kiện tạo ra cuộc sống chỉ có thể xuất hiện vì thành phần của CO2 trong bầu khí quyển nguyên thủy cao hơn, cân bằng lại lượng bức xạ của Mặt trời lúc đó yếu hơn đến khoảng 25% Cường độ của các tia bức xạ tăng lên với thời gian .Trong khi đó đã có đủ cây cỏ trên Trái Đất , thông qua sự quang hợp,lấy đi một phần khí CO2 trong không khí tạo nên các điều kiện khí hậu tương đối ổn định. Hiệu ứng nhà kính nhân loại: Từ khoảng 100 năm nay , con người tác động mạnh vào sự cân bằng nhạy cảm này giữa hiệu ứng nhà kính tự nhiên và tia bức xạ của Mặt trời .Sự thay đổi nồng độ của các khí nhà kính trong vòng 100 năm lại đây ( CO2 tăng 20%,CH4 tăng 90% ) đã làm tăng nhiệt độ lên 20C II. NGUYÊN NHÂN GÂY NÊN HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH: Nhiệt độ bề mặt Trái Đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng Mặt trời đến ,bề mặt Trái Đất và năng lượng bức xạ của Trái Đất vào khoảng không gian giữa các hành tinh .Năng lượng Mặt trời chủ yếu là các tia sóng ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ khí quyển.Trong khi đó , bức xạ của Trái Đất với nhiệt độ bề mặt trung bình 160C là sóng dài có năng lượng thấp, khó xuyên qua lớp khí quyển và bị hấp thu lại bởi một số thành phần có trong khí quyển như CO2 và hơi nước.Lượng nhiệt này bị giữ lại và làm nhiệt độ bên trong ( nhà kính ) tăng lên.Các thành phần có trong khí quyển có ảnh hưởng tới sự phản xạ nhiệt từ Trái Đất vào vũ trụ và làm nóng lớp không khí ở gần bề mặt Trái Đất được gọi là các khí nhà kính..Đó là các thành phần dạng khí trong khí quyển có khả năng hấp thụ tia sóng dài và sau đó lại nhả hấp thụ. Các khí nhà kính gây nên hiệu ứng nhà kính gồm khí nhà kính tự nhiên và khí nhà kính nhân tạo. Các khí nhà kính tự nhiên quan trọng nhất là CO2 và hơi nước Ngoài ra còn có những khí nhà kính nhân tạo khác như CH4, N2O, 03, CO, CFCS (đặc biệt là CFC-11 và CFC-12). Trong đó sự đóng góp chủ yếu đối với hiệu ứng nhà kính là CO2 và hơi nước Một số khí nhà kính chủ yếu: a) CO2 Khoảng 80% năng lượng nhân tạo được sản xuất do quá trình đốt các nhiên liệu chứa Carbon. Chất thải sinh ra là khí CO2 ,một chất khí có trong thành phần khí quyển với hàm lượng thấp ( 0,035% V ). Khi nhu cầu sử dụng năng lượng nhân tạo tăng thì lượng CO2 thải ra càng nhiều ,dần dần tích lũy trong khí quyển. Thêm vào đó diện tích rừng giảm mạnh, dẫn đến lượng CO2 trong khí quyển tăng nhanh. Dần dần hình thành một lớp CO2 tương đối dày bao bọc xung quanh khí quyển Trái Đất ở tầng đối lưu. Tia phản xạ nhiệt từ Trái Đất sẽ bị CO2 và hơi nước hấp thụ và tỏa nhiệt,lượng nhiệt này bị giữ lại phía gần bề mặt Trái Đất và làm nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng lên. CO2 đóng góp trong hiệu ứng nhà kính tới 50% so với các khí khác. Các nguồn tăng CO2 chủ yếu là do việc đốt các nhiên liệu hóa thạch và nạn phá rừng trên toàn cầu do hoạt động nhân tạo. Hơi nước Đóng góp tới 62% trong tổng nhiệt độ tăng lên của Trái Đất. Nguồn tăng hơi nước chủ yếu do sự ấm lên toàn cầu làm biến đổi sự bốc hơi nước ổn định vốn có trên Trái Đất. c) CFCS Quan trọng nhất là khí CFC-11( CCl3F) và CFC-12(CCl2F2) là khí có nồng độ lớn nhất trong khí quyển, đóng góp vào hiệu ứng nhà kính rất lớn, CFC-11 là 0,28ppm , CFC-12 là 0,484ppm. Hằng năm các khí CFC tăng 4% ( năm 1992). Các khí này đều trơ về mặt hóa học, không độc , không cháy, không mùi, là tác nhân làm lạnh cho tủ lạnh. Do trơ về mặt hóa học nên nó có thời gian lưu rất dài ( hàng chục thậm chí hàng trăm năm). d) CH4 Là khí không màu ,ít hoạt động hóa học nên có thời gian lưu trong tầng đối lưu lớn ( khoảng 20 năm ) nên phân bố khắp trong vùng này. Hằng năm tăng khoảng 2% có nồng độ trung bình 0,3 ppm. e) NF3 Một loại khí được phát hiện là có khả năng gây hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng vừa công bố là NF3 ( Nitrogen trifluoride ) là một loại khí thải gây hiệu ứng nhà kính có khả năng làm khí quyển Trái Đất nóng gấp hàng nghìn lần so với khí CO2 tồn tại trong khí quyển, thực tế nhiều gấp 4 lần so với những dự đoán trước đây. Theo các nhà nghiên cứu thuộc viện hải dương học Scripps,Mỹ , sau khi áp dụng hệ thống phân tích mới, lượng khí NF3 trong khí quyển được phát hiện năm 2006 đã lên đến 4200 tấn, nhiều hơn so với ước tính 1200 tấn trước đây. Nghiên cứu cũng dự đoán lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính này trong khí quyển năm 2008 sẽ là 5400 tấn, tăng trung bình 11% mỗi năm. NF3 là loại khí không màu, không mùi, không bị đốt cháy và có khả năng làm bầu khí quyển Trái Đất nóng hơn 17000 lần so với cùng một số lượng khí CO2. NF3 không chỉ có khả năng hấp thụ khí nóng từ môi trường lâu hơn CO2 mà còn tồn tại trong khí quyển lâu hơn gấp 5 lần. Trước đây sự phát thải khí NF3 thường được sử dụng trong quá trình sản xuất tivi màn hình phẳng tinh thể lỏng và các vi mạch điện tử , là quá nhỏ để được coi là một yếu tố gây ra hiện tượng Trái Đất nóng lên. Tuy nhiên các nhà khoa học khẳng định hiện nay khí NF3 cũng cần được kiểm soát giống như CO2 do nhu cầu sử dụng loại khí này đang ngày một tăng lên. III. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH: Hiệu ứng nhà kính làm tăng nhiệt độ hành tinh và làm giảm sự chênh lệch về nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm. Nếu không có hiện tượng hấp thụ năng lượng của các khí nhà kính có trong thành phần khí quyển thì Trái Đất sẽ có nhiệt độ trung bình cỡ -18OC. Chính năng lượng của các bức xạ bị khí nhà kính hấp thụ có tác dụng làm nóng Trái Đất và làm cho nhiệt độ trung bình của Trái Đất vào khoảng 15OC, đủ ấm cho các loài sinh vật có thể sinh sống và cư trú trên đó. Hiệu ứng nhà kính là một hiện tượng tự nhiên và nếu không có sự tác động ngoại lai thì sẽ luôn tồn tại ở trạng thái cân bằng và rất cần cho sự sinh tồn của các loài trên Trái Đất. Đối với Trái Đất , hiệu ứng nhà kính của khí quyển rất có ý nghĩa vì nó duy trì nhiệt độ thích hợp cho sự sống và cân bằng sinh thái, bảo đảm hoạt động cho các vòng tuần hoàn trong tự nhiên. Tuy nhiên , trong hơn một thế kỷ qua , các hoạt động nhân tạo đã thải ra một lượng rất lớn các khí ô nhiễm, làm thay đổi thành phần khí quyển, tăng hàm lượng các khí nhà kính, dẫn tới sự gia tăng quá mức hiệu kính nhà kính tự nhiên vốn đã được duy trì cân bằng trong suốt hàng triệu năm. Cân bằng nhiệt giữa năng lượng Mặt trời đến Trái Đất không thay đổi và năng lượng phản xạ từ Trái Đất bị chuyển dịch dẫn tới sự tăng nhiệt độ Trái Đất trên quy mô toàn cầu, kéo theo hàng loạt những biến đổi khác. Các ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính rất phức tạp và tác động tương hỗ lẫn nhau gây thay đổi đối với môi trường sinh thái tự nhiên và xã hội. Nhiều nghiên cứu cho rằng, những thay đổi ngày nay là kết quả của sự tăng hàm lượng khí nhà kính từ 30 năm trước, cho nên hậu quả của sự tăng khí nhà kính hiện tại có thể sẽ tới trong tương lai. Có thể thấy một số ảnh hưởng rõ nét như sau: Nhiệt độ toàn cầu tăng : Hiện tượng toàn cầu ấm lên, nhiệt độ trung bình đến năm 2050 sẽ cao nhất trong vòng 150000 năm gần đây, là hậu quả trực tiếp của sự tăng hiệu ứng nhà kính do hoạt động nhân tạo, làm mất cân bằng nhiệt của Trái Đất và vũ trụ. Những dự báo cho thấy , nếu hàm lượng các khí nhà kính cứ tiếp tục tăng với tốc độ như hiện nay thì trong vòng 100 năm tới, nhiệt độ khí quyển sẽ tăng từ 2OC đến 5OC. Sự tăng nhiệt độ này ảnh hưởng tới đời sống kinh tế xã hội và hệ sinh thái toàn cầu. Sự tăng nhiệt độ bề mặt Trái Đất sẽ làm mức nước biển dâng cao không chỉ do sự tăng thể tích nước do nhiệt mà còn làm tan lớp băng ở hai cực. Nạn lũ lụt, úng đe dọa, nhiều vùng đất thấp ven biển ,đảo nhỏ và một số quốc gia sẽ chìm dưới mặt biển, nhiều đất đai màu mỡ sẽ bị ngập nước, đất và nước sẽ bị mặn hóa Sự tăng nhiệt độ sẽ dẫn tới những thay đổi trong tuần hoàn gió, tăng tốc độ bốc hơi nước , ảnh hưởng tới lượng mưa toàn cầu. Tuy nhiên tần suất và mức độ của sự thay đổi sẽ rất khác nhau giữa các khu vực, dẫn tới các tác động lên hệ thực vật và làm khô đất , giảm chất lượng đất do sự bốc hơi nước tăng, lượng Carbon được giải phóng vào khí quyển càng nhiều, ảnh hưởng tới năng suất cây trồng. Sự tăng nhiệt độ khí quyển, tăng lượng nước bốc hơi và thay đổi lượng mưa sẽ dẫn tới sự dịch chuyển các vùng cực của thảm thực vật trên thế giới, làm dịch chuyển các vùng canh tác nông nghiệp. Thực tế mức tăng nhiệt độ là 1OC sẽ có thể gây ra sự dịch chuyển khoảng 200 km. Khi hệ sinh thái không có khả năng thích nghi với sự tăng nhiệt độ cỡ 0,3OC/ 10 năm thì sẽ có nguy cơ bị suy thoái và mất dần Nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng làm tăng quá trình chuyển hóa sinh học, gây nên sự mất cân bằng về lượng và chất trong cơ thể sống, tăng thêm bệnh tật cho con người. Đồng thời cũng làm tăng tốc độ của nhiều phản ứng hóa học, làm thay đổi cân bằng tự nhiên, giảm tuổi thọ công trình xây dựng. Nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng làm giảm khả năng hòa tan CO2 trong nước biển. Lượng CO2 trong khí quyển tăng làm mất cân bằng CO2 giữa khí quyển và đại dương, tăng hiệu ứng nhà kính. Đưa Trái Đất về kỷ Jura : Nếu cứ để nhiệt độ ấm dần lên do hiệu ứng nhà kính, Trái Đất có thể quay trở lại kỷ Jura cách đây 150 triệu năm. Điều đó có nghĩa là: mọi loài sinh vật bị tiêu diệt Mới đây , tại một hội thảo khoa học quốc tế tổ chức tại Nam Kinh, Trung Quốc, hơn 80 nhà khoa học trên thế giới cảnh báo, Trái Đất có thể quay trở lại thời kỳ kỷ Jura cách đây 150 triệu năm. Các đại dương đang ấm lên sẽ làm mực nước biển dâng cao . Đây là thời kỳ mà nhiệt độ Trái Đất cùng mực nước biển đều tăng cao và hủy diệt mọi loài sinh vật.Các phát hiện khảo cổ cho thấy, phân tầng địa tầng của kỷ Jura rất rõ ràng, bên trên là địa tầng màu đỏ, bên dưới cũng là địa tầng màu đỏ, còn ở giữa là các mỏ than với trữ lượng lớn, điều đó cho biết hiệu ứng nhà kính đã phát sinh ở thời kỳ kỷ Jura. Nhiệt độ lúc bấy giờ chắc chắn đã tăng rất cao nên đất bùn đều chuyển thành màu đỏ , mà ở địa tầng màu đỏ đó không hề phát hiện thấy dấu vết của hoá thạch sinh vật, chứng tỏ rằng mọi sinh vật đều đã bị diệt sạch. Những bằng chứng gần đây hơn cho thấy, nồng độ CO2 trong khí quyển của 400 nghìn năm trước khoảng 180-280 ppm ( số lượng phân tử CO2 / 1 triệu phân tử không khí ) nhưng từ sau khi cách mạng công nghiệp ra đời, nồng độ này không ngừng tăng lên, đến năm 2004 con số này đã lên tới 379ppm. Đây là điều kiện phát sinh hiệu ứng nhà kính nghiêm trọng ở kỷ Jura. Các nhà khoa học dự đoán, nếu cứ để nồng độ CO2 tiếp tục tăng lên thì sau 100 năm nữa hoặc trong thời gian ngắn hơn, rất có thể hiệu ứng nhà kính có mức độ giống như thời kỳ kỷ Jura sẽ tái xuất hiện. Lúc đó băng ở hai cực của Trái Đất sẽ tan ra, đất liền sẽ bị thu hẹp, nhiệt độ tăng cao và một lượng lớn sinh vật sẽ bị hủy diệt. Sao Kim chính là bài học về hiệu ứng nhà kính cho Trái Đất . Nhiệt độ bề mặt của sao Kim lên tới gần 5000OC và không cho phép sự tồn tại của bất kỳ loài sinh vật nào. Không chỉ khô và nóng, trên 90% thành phần khí quyển của sao Kim là CO2 ,áp suất khí quyển cũng cao gấp 90 lần so với Trái Đất .Ngoài ra sao Kim còn bị che phủ bởi một lớp mây axit sulfuric dày.Nguyên nhân gây nóng ở sao Kim chính là do hiệu ứng nhà kính. Với sao Kim, một số nhà khoa học dự đoán, ở đây đã từng có môi trường ấm áp, nhưng sự xuất hiện hiệu ứng nhà kính không thể kiểm soát đã làm cho toàn bộ nước trên bề mặt sao Kim bị bay hơi ( nước bay hơi cũng làm tăng hiệu ứng nhà kính) nên cuối cùng sao Kim bị biến thành “ lò nướng “ như ngày nay. Mặc dù hiệu ứng nhà kính đã trở thành một trong những mối lo đối với nhiệt độ Trái Đất nhưng nếu hoàn toàn không có hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ Trái Đất sẽ luôn ở dưới mức 0OC và sẽ không có sự sống. Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ của Trái Đất có thể sẽ tăng lên từ 1,4- 5,8OC do hiệu ứng nhà kính, cũng có nghĩa là sẽ có thêm những mối đe dọa từ thiên tai. Con người sẽ phải đối mặt với những hiểm họa do chính mình gây nên nếu không được khống chế kịp thời. Làm biến dạng công trình: Tình trạng Trái Đất nóng lên không chỉ khiến lớp băng ở địa cực bị tan chảy, mà ngay cả lớp băng vĩnh cửu bên dưới bề mặt Trái Đất cũng bị ảnh hưởng, khiến hiện tượng co rút của lớp vỏ Trái Đất xảy ra thường xuyên hơn, tạo ra nhiều vết nứt, làm biến dạng nhiều công trình cơ sở hạ tầng như đường sắt, đường cao tốc và nhà cửa, đồng thời gây lở đá và sạt đất ở trên đồi,núi. Một đoạn đường ray bị biến dạng do lớp băng vĩnh cửu của Trái Đất tan chảy Sự biến mất của các hồ: 125 hồ ở Bắc cực đã biến mất trong vài thập kỷ qua. Điều này càng khiến người ta tin rằng hiệu ứng nhà kính đã tác động tới 2 địa cực của Trái Đất. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các hồ biến mất vì tầng băng vĩnh cửu bên dưới chúng đã tan chảy. Khi lớp băng dưới hồ- vốn đã tồn tại từ hàng triệu năm- tan chảy, nước sẽ thấm qua đất khiến hồ cạn đi. Khi các hồ biến mất, các hệ sinh thái phụ thuộc vào chúng cũng biến mất theo. Ảnh hưởng sức khỏe con người : Hiệu ứng nhà kính làm chứng hắt hơi sổ mũi và ngứa mắt vốn hành hạ bạn vào mùa xuân xuất hiện thường xuyên hơn trong những năm gần đây. Trong suốt vài thập kỷ qua, số người mắc các bệnh dị ứng theo mùa và hen suyễn ngày càng tăng lên. Mặc dù những thay đổi trong lối sống và tình trạng ô nhiễm khiến con người trở nên dễ tổn thương hơn trước những tác nhân gây dị ứng trong không khí, song một số nghiên cứu đã khẳng định một nguyên nhân khác nữa, lượng CO2 trong khí quyển và nhiệt độ cao là nhân tố quan trọng khiến thực vật nở hoa sớm và tạo ra nhiều phấn hơn. Phấn hoa là một trong những tác nhân gây dị ứng hàng đầu. Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kỳ dài hơn trước. Sự thay đổi lượng mưa và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm. Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa học trong cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng. Ảnh hưởng tới hệ sinh thái : Các hệ sinh thái phải gánh chịu nhiều sức ép như thay đổi thành phần đất, chất ô nhiễm ngày càng nhiều, thay đổi khí hậu tự nhiên,… Biến đổi khí hậu là một sức ép làm thay đổi hoặc gây nguy hại cho các hệ sinh thái. Nhiều loài cây bị đe dọa do biến đổi khí hậu. Nếu không có các biện pháp thích ứng, nhiều loài cây sẽ có nguy cơ biến mất trong thế kỷ 21. Sự biến đổi khí hậu sẽ dẫn đến sự di chuyển cá về đầu 2 cực Nam và Bắc, sự suy giảm nơi cư trú của các loài cá sống ở nước lạnh và mở rộng nơi cư trú của các loài cá sống ở vùng nước ấm. Sa mạc ngày càng mở rộng, rừng càng lùi thêm về vùng cực, hạn hán rất nặng, lượng mưa tăng thêm 7-11%. Mùa đông càng ẩm, mùa hè càng khô, vùng nhiệt đới càng ẩm ướt, vùng khô á nhiệt đới càng hạn, khiến cho các công trình thủy lợi phải điều chỉnh lại. Giảm số lượng hồ, vùng đầm lầy, các dòng sông băng, tăng sự xâm lấn của các động thực vật ngoại lai. Phá hủy kỳ quan thế giới : Những tác động trực tiếp của hiệu ứng nhà kính có thể phá hủy các công trình cổ kính nhân tạo cũng như các kỳ quan thiên tạo- những công trình luôn được coi là biểu tượng của sự trường tồn- với tốc độ nhanh khủng khiếp. Sự dâng cao của mực nước biển và sự khắc nghiệt của thời tiết có thể gây thiệt hại nghiêm trọng đối với những di tích thắng cảnh độc nhất vô nhị, chẳng hạn như Sukhothai, một thành phố 600 năm tuổi và từng là kinh đô của vương quốc Thái Lan đã bị phá hỏng bởi những trận lũ Cháy rừng thường xuyên hơn: Hiệu ứng nhà kính cũng làm tăng số vụ cháy rừng ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Các nhà khoa học cho rằng sự tăng lên của nhiệt độ và tình trạng tan sớm của tuyết là nguyên nhân chính khiến lửa dễ xuất hiện và lan ra các khu rừng. Mùa xuân đến sớm khiến tuyết tan sớm làm cho tình trạng khô hanh ở các khu rừng ngày càng trầm trọng, khiến chúng dễ bắt lửa hơn Thay đổi nhịp sinh học của các loài: Hiệu ứng nhà kính khiến mùa xuân bắt đầu sớm hơn nên chim có thể sẽ không có sâu mà bắt. Do thực vật nở hoa sớm hơn, những động vật ăn cây cỏ dưới tác động của nhịp sinh học sẽ không thể kịp sinh con vào thời gian mà lượng thức ăn dồi dào. Chỉ những loài điều chỉnh được nhịp sinh học để bắt nhịp với chu kỳ sinh sản của cây cối mới có cơ hội duy trì nòi giống và truyền thông tin di truyền cho thế hệ sau. Đẩy nhiều động vật lên cao: Trong một nghiên cứu hiếm hoi về tác động của hiệu ứng nhà kính đối với các khu vực nhiệt đới, nhà sinh thái học Robert Colwell của đại học Connecticut ( Mỹ) và các cộng sự tới một ngọn núi lửa đã ngừng hoạt động ở Costa Rica để thu thập dữ liệu về 2000 loài thực vật và côn trùng ở khu rừng trên sườn núi. Họ nhận thấy một nửa số loài sống ở độ cao từ 600 m trở lên đã di chuyển lên những nơi mà chúng chưa hề xuất hiện. Ngoài hoạt động của con người, sự tồn tại của những rừng nhiệt đới thấp cũng bị đe dọa bởi một yếu tố nữa: sự thiếu vắng những loài sinh vật thay thế. Những động vật và thực vật không thể bò lên cao cũng đối mặt với hiểm họa, trừ khi chúng có thể chịu đựng được nhiệt độ cao hơn. Mặc dù sự thay đổi độ cao của các loài không phá vỡ tính đa dạng sinh học của một khu vực nhưng việc các loài thay đổi độ cao trong gần một thế kỷ có thể gây nên những hậu quả tai hại trong tương lai. IV) NHỮNG BIỆN PHÁP HẠN CHẾ SỰ GIA TĂNG HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH: Khi chúng ta phát triển sản xuất công nghiệp, trước hết cần phải tích cực xử lý ô nhiễm không khí, nghiên cứu công nghệ chuyển hóa CO2 thành chất khác, ngăn chặn các khí CH4, halozen, clo, flo,…không cho thải vào không khí ; chú trọng đến việc hạn chế khí NF3 từ việc sản xuất tivi màn hình tinh thể lỏng và các vi mạch điện tử. Bảo vệ tốt cây rừng, tích cực trồng cây gây rừng, làm cho CO2 chuyển hóa thành chất dinh dưỡng thông qua