Đề tài Nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp

1. Lý do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết dân số là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của một địa phương, một đất nước.Dân số vừa có tư cách như một chủ thể làm ra của cải xã hội, vừa có tư cách như một đối tượng thụ hưởng của cải vật chất và dịch vụ xã hội.Chỉ tiêu quy mô dân số ,cơ cấu dân số là những chỉ tiêu cơ bản làm nền tảng tính toán xây dựng các phương án quy hoạch và kế hoạch kinh tế xã hội trung dài hạn. Thực tiễn từ thành phố Hồ Chí Minh thấy sự phát triển của thành phố nhất là từ sau khi có chính sách đổi mới có thể coi là một ví dụ điển hình về sự phát triển kinh tế xã hội- đô thị lớn mạnh nhờ nguồn lực di dân.Và dễ hiểu rằng di dân là một việc tất yếu của quá trình đô thị hóa.Hiện nay hai thách thức nổi bật của việc phát triển đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh là quy mô dân số quá lớn (khoảng 7,2 triệu người theo kết quả điều tra năm 2009) và ngày càng có khả năng tăng nhanh do tình trạng nhập cư vào thành phố ngày càng gia tăng trong những năm gần đây.Tỷ lệ tăng có học vượt lên trên tỷ lệ tăng tự nhiên.Nếu đối với cả nước mức sinh là vấn đề quan tâm hàng đầu trong vấn đề phát triển dân số thì ở thành phố Hồ Chí Minh vấn đề nhập cư được đặt lên ưu tiên.Chính vì vậy nhóm chúng tôi làm đề tài “Nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp” để tìm hiểu sâu và kỹ hơn hiện trạng nhập cư ,những ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển đô thị ở thành phố này. 2. Đối tượng nghiên cứu. Những người di cư đến hoạt động kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh 3. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu quá trình di cư của các thành phố khác vào thành phố HCM ,tìm ra ảnh hưởng của nó với vấn đề phát triển đô thị, chính sách quản lý của nhà nước với người nhập cư từ đó có một số giải pháp thích hợp.

docx18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8596 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết dân số là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của một địa phương, một đất nước.Dân số vừa có tư cách như một chủ thể làm ra của cải xã hội, vừa có tư cách như một đối tượng thụ hưởng của cải vật chất và dịch vụ xã hội.Chỉ tiêu quy mô dân số ,cơ cấu dân số là những chỉ tiêu cơ bản làm nền tảng tính toán xây dựng các phương án quy hoạch và kế hoạch kinh tế xã hội trung dài hạn. Thực tiễn từ thành phố Hồ Chí Minh thấy sự phát triển của thành phố nhất là từ sau khi có chính sách đổi mới có thể coi là một ví dụ điển hình về sự phát triển kinh tế xã hội- đô thị lớn mạnh nhờ nguồn lực di dân.Và dễ hiểu rằng di dân là một việc tất yếu của quá trình đô thị hóa.Hiện nay hai thách thức nổi bật của việc phát triển đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh là quy mô dân số quá lớn (khoảng 7,2 triệu người theo kết quả điều tra năm 2009) và ngày càng có khả năng tăng nhanh do tình trạng nhập cư vào thành phố ngày càng gia tăng trong những năm gần đây.Tỷ lệ tăng có học vượt lên trên tỷ lệ tăng tự nhiên.Nếu đối với cả nước mức sinh là vấn đề quan tâm hàng đầu trong vấn đề phát triển dân số thì ở thành phố Hồ Chí Minh vấn đề nhập cư được đặt lên ưu tiên.Chính vì vậy nhóm chúng tôi làm đề tài “Nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp” để tìm hiểu sâu và kỹ hơn hiện trạng nhập cư ,những ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển đô thị ở thành phố này. Đối tượng nghiên cứu. Những người di cư đến hoạt động kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu quá trình di cư của các thành phố khác vào thành phố HCM ,tìm ra ảnh hưởng của nó với vấn đề phát triển đô thị, chính sách quản lý của nhà nước với người nhập cư từ đó có một số giải pháp thích hợp. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích tổng hợp, thực chứng, thống kê số liệu. Chương I : Cơ sở lý luận về nhập cư tại Tp.HCM Khái niệm nhập cư. Nhập cư là hoạt động di chuyển chỗ ở đến vào một vùng hay quốc gia mới. Dân nhập cư là người dân di chuyển từ một vùng đến một vùng khác để định cư hoặc tạm trú. Mục đích nhập cư. Mọi người khi quyết định làm bất cứ việc gì họ đều tính cho lợi ích của họ và những người thân của họ. Và người nhập cư cũng vậy? Tại sao họ phải nhập cư vào thành phố Hồ Chí Minh - thành phố đông dân nhất VN với gần 8 triệu người như hiện nay? Nếu như những năm trước nhập cư vì lý do phi kinh tế (đoàn tụ gia đình, cưới hỏi,…) chiếm một tỷ lệ khá cao, gần như một nửa thì bây giờ động lực kinh tế chiếm vị trí quan trọng áp đảo. Những người nhập cư về thành phố tìm việc làm không chỉ vì bản thân mình mà đó còn là chiến lược quan trọng của các hộ gia đình ở quê quán. Lý do di chuyển gồm có những nguyên nhân ở cả hai nơi đi và đến. Đối với người nhập cư từ các địa phương khác đặc biệt là vùng nông thôn, ở nơi đi, vấn đề thất nghiệp ở nông thôn hay có việc làm nhưng thu nhập thấp là nguyên nhân chính thúc đẩy người di chuyển đến thành phố. Điều kiện sinh hoạt ở nơi xuất cư cho thấy mức sống, vật chất lẫn tinh thần, ở vùng nông thôn quá thấp so với thành phố như điều kiện học tập, vui chơi giải trí, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, giao thông…. Ở nơi đến thì động lực nhập cư vì lý do kinh tế này càng được củng cố và tăng mạnh vì họ tìm được việc làm ở thành phố tương đối dể dàng. Hơn 80% đã có thể tìm việc làm trong tháng đầu tiên khi đến thành phố. Họ chấp nhận những điều kiện làm việc khó khăn hơn và thu nhập có thể ít hơn người dân tại chỗ. Những cuộc điều tra về di dân và việc làm trong khu vực không chính thức do Viện Kinh tế TP.HCM thực hiện đều có thể chứng minh điều đó. Vài con số dẫn từ các cuộc điều tra trong cho thấy có đến 44,4% lao động hoạt động phương tiện 2-3 bánh công cộng, 43% người hoạt động trên vỉa hè và 55% người buôn bán lưu động là người nhập cư. Điều này cho thấy đây là loại ngành nghề có yêu cầu về tay nghề và vốn thấp, dễ kiếm tiền nên dễ thu hút lao động nhập cư. Tỷ lệ ngoại hối của đồng VN so với các đồng tiền khác trên thế giới như đồng dollar, euro, hay bảng Anh… có khoảng cách khá xa, do đó, khi sống ở Việt Nam, với 1 mức lương như nhau hay có thể thấp hơn 1 ít so với các quốc gia phát triển trên thế giới, Việt Nam sẽ thu hút người nhập cư từ ngước ngoài vào hơn do giá cả khá thấp, môi trường sống khá tốt, mức thuế thu nhập không quá cao. Chỉ với 500 đô la, ở các quốc gia phát triển, họ chỉ có thể ở những căn nhà nhỏ tạm bợ, nhưng khi đến Việt Nam, họ có thể ăn uống, hưởng thụ cuộc sống xa hoa, thoải mái, Do đó, họ dễ dàng chấp nhận bỏ cuộc sống hiện đại ở những quốc gia phát triển để ở lại VN sống cuộc sống dư dả về vật chất lẫn tinh thần. Phân loại nhập cư. Phân loại theo mục đích nhập cư : Nhập cư để học tập, nhập cư để làm việc và nhập cư với mục đích khác. Phân loại theo khu vực : Nhập cư từ các địa phương trong nước và nhập cư từ nước ngoài vào Việt Nam Chương 2 : Thực trạng nhập cư vào Tp.HCM hiện nay 2.1. Quy mô và cơ cấu dân nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Dân số HCM ngày càng tăng, quy mô dân số lớn, nhất là dân nhập cư tạo sức ép không nhỏ cho thành phố. Theo số liệu thống kê gần đây, tổng dân số của Tp. HCM tính đến ngày 1/4/ 2009 là 7.123.340 người, tăng 2.086.185 người, tăng 41,4% so thời điểm này năm 1999.Trong 10 năm, tốc độ tăng dân số bình quân của TP là 3,5%/năm. Bảng 1 : Dân số Tp.HCM năm 1979 - 2009/ Mức tăng dân số TP trong thời kỳ 1999 - 2009 bằng 2 lần mức tăng dân số thời kỳ 1989 - 1999 và bằng 3,7 lần mức tăng dân số thời kỳ 1979 - 1989. Bình quân một năm TPHCM tăng 208.000 người, gần bằng dân số của 1 quận trung bình tại TPHCM( bảng 2 ) Bảng 2 : Tỷ lệ tăng dân số Tp.HCM qua các giai đoạn  1979 - 1989  1989 - 1999  1999 – 2009   Tỷ lệ tăng dân số chung ( % )  1.63  2.36  3.5   Tỷ lệ tăng tự nhiên (%)  1.61  1.52  1.27   Tỷ lệ tăng cơ học (%)  0.02  0.84  2.23   Nếu như thời kỳ 1979 - 1989 và 1989 - 1999 dân số tăng chủ yếu do yếu tố tăng tự nhiên (tỷ lệ tăng của 2 thời kỳ này lần lượt là 1,61% và 1,52%) thì giai đoạn 1999 - 2009 dân số Tp.HCM tăng chủ yếu do tăng cơ học, tỷ lệ di cư thuần bằng 2/3 tỷ lệ dân số hàng năm của Tp. Bảng 3 : Số lượng dân nhập cư từ các tỉnh vào Tp HCM năm 2009 Các tỉnh  Số người  Các tỉnh  Số người  Các tỉnh  Số người  Các tỉnh  Số người            Hà Nội  9458  Thái Bình  6515  Bình Phước  5569  Phú Thọ  2142   Hà Giang  94  Hà Nam  3479  Tây Ninh  10600  Vĩnh Phúc  3079   Cao Bằng  156  Nam Định  9566  Bình Dương  7055  Bắc Ninh  4353   Bắc Cạn  211  Ninh Bình  4005  Đồng Nai  22383  Hải Dương  3591   Tuyên Quang  493  Thanh Hóa  4062  Bà Rịa – Vũng Tàu  9823  Hải Phòng  2456   Lào Cai  26  Nghệ An  15062  Long An  21130  Hưng Yên  2293   Điện Biên  162  Hà Tĩnh  8064  Tiền Giang  28379  Khánh Hòa  7362   Lai Châu  39  Quảng Bình  4299  Bến Tre  25422  Ninh Thuận  5695   Sơn La  360  Quảng Trị  4328  Trà Vinh  16830  Bình Thuận  10679   Yên Bái  479  Thừa Thiên Huế  10558  Vĩnh Long  16804  KonTum  1048   Hòa Bình  777  Đà Nẵng  4247  Đồng Tháp  17524  Gia Lai  4302   Thái Nguyên  1547  Quảng Nam  11859  An Giang  14938  Đắk Lắk  8875   Lạng Sơn  470  Quảng Ngãi  17830  Kiên Giang  10190  Sóc Trăng  13130   Quảng Ninh  825  Bình Định  18221  Cần Thơ  10444  Bạc Liêu  7540   Bắc Giang  3404  Phú Yên  5923  Hậu Giang  4869  Cà Mau  10129   Đắk Nông  1201  Lâm Đồng  10335        Tổng  483689   Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng: số lượng người nhập cư vào thành phố HCM đến từ khắp các tỉnh thành trong cả nước, trong đó nhiều nhất là các tỉnh từ Thừa Thiên Huế - Bình Định và đặc biệt là các tỉnh khu vực phía Nam xung quanh thành phố chiếm số lượng lớn như: Tiền Giang (28379 dân nhập cư), Bến Tre (25422 dân nhập cư)…. 2.2. Những mặt tích cực và tiêu cực từ quá trình nhập cư. 2.2.1. Tích cực. Như đã nói ở trên di dân chính là điều tất yếu của quá trình phát triển đô thị hóa.Quá trình di dân - nhập cư vào thành phố với tốc độ tăng trưởng nhanh không phải hoàn toàn là tiêu cực. Thành phố Hồ Chí Minh thừa nhận dân nhập cư đã đóng góp cho TP khoảng 30% GDP mỗi năm. Điều này cho thấy họ cũng đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của thành phố. Quá trình di cư có thể góp phần giảm nghèo thông qua vòng tuần hoàn chu chuyển giữa thành thị và nông thôn, giữa nơi đi và nơi đến. Di cư đã trở thành chiến lược của nhiều hộ gia đình vì nó giúp họ thoát nghèo hoặc không bị lún sâu vào đói nghèo. Mặt khác, di cư cũng làm gia tăng nhu cầu địa phương về dịch vụ, hàng hóa, tạo việc làm và thu nhập cho người không di cư. Tuy chưa có thống kê chính xác bao nhiêu gia đình ở nông thôn có nhà xây kiên cố và vật dụng đắt tiền được tạo ra từ những đồng tiền của di dân lao động đến TP.HCM, song có một thực tế là dân nhập cư đóng góp rất đặc biệt vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn( Đây cũng là giải pháp góp phần vào chính sách xóa đói, giảm nghèo của cả nước. Cung cấp nguồn lao động cho thành phố phát triển kinh tế. Góp phần hình thành thị trường lao động phù hợp đối với một số ngành nghề đặc thù. Hàng năm, Tp.HCM đón nhận 1 lượng lớn người nhập cư, ngoài đi học, hầu như người nhập cư đến Tp với mục đích là kiếm thêm thu nhập nuôi sống mình và gia đình. Họ là nguồn cung cấp lực lượng lao động rất lớn cho thành phố.Bên cạnh đó, để thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm công nghệ cao, thì một trong những chiến lược hàng đầu mà thành phố phải theo đuổi là huy động nguồn nhân lực chất lượng cao thuộc các lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, có khả năng khai thác hiệu quả các tài nguyên cũng như các ưu điểm do công nghệ thông tin đem lại. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở nguồn nhân lực nội tại vốn có thì thành phố sẽ tự đánh mất cơ hội mở rộng phạm vi lựa chọn của mình.Chính vì vậy nhập cư vào thành phố cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cho các ngành kinh tế - xã hội Góp phần thúc đẩy sự trao đổi về kinh tế, văn hóa, kỹ thuật giữa vùng đô thị (nơi đến) và nông thôn (nơi đi); góp phần thúc đẩy việc hình thành các khu đô thị mới…Quá trình di dân –nhập cư tới nơi ở mới không chỉ đơn thuần là việc họ di chuyển người mà họ còn mang theo cả phong tục,nếp sống,văn hóa nơi họ đi.Chính vì vậy nhập cư tạo ra sự đa dạng về văn hóa trong quá trình hình thành đô thị. 2.2.2. Tiêu cực. Hiện với dân số khoảng 8 triệu người, chẳng bao lâu nữa TP.HCM sẽ trở thành một siêu đô thị (với số dân từ 10 triệu dân trở lên) kéo theo đó là hàng loạt vấn đề nảy sinh sống tập trung quá đông trên một diện tích không lớn chủ yếu trong khu vực nội thành. Các vấn đề đó nếu không được can thiệp và giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân như: ô nhiễm môi trường, thiếu chỗ ở, thất nghiệp, lối sống, văn hóa… Thứ nhất, là việc gia tăng sức ép việc làm cho thành phố. Khi nhập cư vào thành phố ai cũng mong kiếm cho mình được một công việc phù hợp với mức lương thỏa đáng để ổn định cuộc sống nhưng không phải dễ dàng gì ai cũng có đựợc công việc. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở TP.HCM thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào thành phố, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại thành phố ngày càng tăng. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân dẫn tới những mặt tiêu cực khác phát sinh, tạo ra gánh nặng về mặt kinh tế xã hội cho thành phố. Thứ hai, đó là tình trạng nhập cư có nguy cơ gây ra cho thành phố là tình trạng gây mất trật tự công cộng, tác động xấu đến khung cảnh sống tại các đô thị( từ sự hình thành tự phát của các khu ổ chuột, nơi nương thân của những người lao động nhập cư nghèo và gia tăng sức ép cho các cấp chính quyền. Các cuộc khảo sát cho thấy, những người di cư tới thành phố có những hạn chế nhất định về chuyên môn, tay nghề nên phần đông trong số họ phải làm đủ các loại công việc. Cuộc sống tạm bợ qua ngày của những người lang thang và di dân do hình thành nên các tụ điểm chợ lao động gây mất trật tự công cộng và mỹ quan thành phố. Sau khi làm việc căng thẳng và mệt nhọc người lao động thường tập trung qua đêm hoặc ở trọ tại các xóm lao động và nhà trọ bình dân rẻ tiền, điều kiện nghỉ ngơi và sinh sống trong các khu vực này không được đảm bảo. Do tính chất công việc, hàng ngày họ phải tiếp xúc với nhiều tầng lớp trong xã hội, họ dễ dàng tiếp thu cả cái tốt và cái xấu. Vì vậy, ở họ rất dễ mắc các tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng cho vấn đề an ninh trật tự và khó khăn cho các nhà quản lý. Thứ ba, đó là việc quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở: mặc dù thành phố đã được Nhà nước đầu tư về cơ sở hạ tầng, về điều kiện nhà ở nhưng vẫn thiếu và không đồng bộ. Thực tế quỹ nhà ở, công trình công cộng mới xây dựng mặc dù nhanh nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu đô thị hóa: trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp thoát nước, điện sinh hoạt và vệ sinh môi trường đô thị. Các vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn khi mà càng ngày càng có nhiều người nhập cư vào thành phố. 2.3. Quản lý của nhà nước đối với vấn đề nhập cư. Dòng người nhập cư vào Tp.HCM ngày càng nhiều, số lượng nhập cư gia tăng rất nhanh các năm, làm ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển kinh tế – xã hội của thành phố cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực như đã nói ở trên. Do đó, Chính phủ cần phải có sự quản lý phù hợp để điều chỉnh dòng nhập cư góp phần vào sự phát triển của thành phố. Quản lý nhập cư theo phương pháp hành chính. Để quản lý lao động nhập cư hiện nay, chính quyền thành phố sử dụng phương pháp hành chính là chủ yếu. Phương pháp hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội là cách thức tác động trực tiếp bằng các quyết định mang tính chất bắt buộc của nhà nước đối với đối tượng quản lý nhằm mục tiêu đã đề ra. Phương pháp hành chính được xây dựng trên cơ sở sử dụng quyền lực của nhà nước nhằm duy trì tính trật tự, tính ổn định của các quá trình kinh tế - xã hội. Quản lý hành chính đối với dân cư và lao động di chuyển vào TPHCM nói riêng, ở các tỉnh thành khác trong cả nước nói chung được thực hiện thông qua hệ thống đăng ký hộ khẩu. Hệ thống đăng ký hộ khẩu đã có từ lâu ở Việt Nam, được chia thành 4 loại chính: KT1, KT2, KT3, KT4. Khác với người dân có hộ khẩu thường trú (KT1, KT2), người nhập cư được phân loại theo hai diện KT3 và KT4. Trường hợp đến thành phố từ một năm trở lên và có ý định cư trú dài hạn, có nhà ở hợp pháp (hoặc nhà thuê do chủ nhà hợp pháp bảo lãnh) sẽ được đăng ký KT3 và hàng năm cần phải đăng ký tạm trú lại. Nhân khẩu KT3 không phải trở về quê lấy giấy tạm vắng hàng năm, chỉ cần lấy giấy tạm vắng một lần đầu tiên. Còn diện KT4 là những người tạm trú với thời gian từ 6 tháng trở lên, phải ở nhà thuê hay nhà trọ, hiện có việc làm ở thành phố, nhóm này phải đăng ký lại 6 tháng/lần. Đa số nhân khẩu KT4 là công nhân khu công nghiệp và lao động ngoại tỉnh, thường tập trung ở các nhà trọ, nhà tạm. Theo quy định cũ, để được nhập hộ khẩu (HK) vào TP.HCM thì thời gian tạm trú phải năm năm, có việc làm lâu dài trong các doanh nghiệp và phải có xác nhận về việc này, đồng thời phải có nhà ở hợp pháp (phải đứng tên chủ sở hữu nhà). Trong khi đó, Luật Cư trú Ra đời và có hiệu lực từ ngày 1-7-2007 mở ra điều kiện thoáng hơn cho người dân về đăng ký hộ khẩu vào các đô thị lớn. Họ chỉ yêu cầu thời gian tạm trú là một năm, bỏ yêu cầu về điều kiện công việc. Riêng chỗ ở hợp pháp thì không bắt buộc phải đứng tên sở hữu nhà mà ở nhà thuê cũng được nếu chủ nhà đồng ý bảo lãnh. Qua hai năm rưỡi thực hiện, hàng trăm ngàn người đã được nhập hộ khẩu vào TP.HCM nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình. Tuy nhiên, luật cư trú chỉ áp dụng cho dòng nhập cư ở trong nước chứ không áp dụng cho những người nước ngoài nhập cư vào Việt Nam. Quản lý người nhập từ từ nước ngoài vào Việt Nam. Người nhập cư đến từ rất nhiều quốc gia trên thế giới từ nhiều nền văn hóa khác nhau đã làm cho TPHCM vốn sôi động ngày càng sôi động hơn. Thế nhưng bên cạnh những mặt tích cực đó thì vẫn tồn tại những bất cập mà chính những chính sách quản lý lỏng lẻo, chế tài chưa đủ sức răn đe của chính quyền đã gây nên những sự việc đáng tiếc trong thời gian vừa qua như một số người da đen phạm tội, cướp giật, lừa đảo… Nghị định 34/CP của chính phủ quy định việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 12-04-2008(ngày 10-06-2008,Bộ LĐ-TB&XH đã có thông tư 08 hướng dẫn thực hiện). Tuy nhiên đến nay sau một năm thực hiện trong khi lao động nước ngoài vào VN ngày càng gia tăng thì công tác quản lý vẫn không theo kịp. Những quy định của Nhà nước đưa ra vẫn chưa sát thực tế : Nghị định quy định trước khi tuyển dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp phải thực hiện đăng báo tuyển dụng. Quy định này chỉ mang tính hình thức và không chứng minh được việc tuyển người nước ngoài là do không có lao động VN thay thế theo quy định của luật pháp VN; Quy định về cấp lại giấy phép lao động chỉ áp dụng đối với giấy phép bị hỏng hoặc mất nhưng không quy định hướng xử lý đối với trường hợp có sự thay đổi về mặt nội dung trên giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên doanh nghiệp...; Đối với người lao động vào VN chào bán dịch vụ cũng chưa có quy định cụ thể là trong bao lâu, gây khó khăn cho việc quản lý ,kiểm tra, giám sát; Rắc rối nhất là quy định về cấp giấy phép lao động đối chức danh trưởng văn phòng đại diện tổng giám đốc là người nước ngoài. Nhiều người nước ngoài trước đây thực hiện hợp đồng lao động, sau quá trình làm việc được bổ nhiệm lên chức trưởng văn phòng đại diện.Ở thời điểm bổ nhiệm người này được miễn cấp giấy phép lao động, nhưng khi nghị định 34/CP có hiệu lực, họ phải xin giấy phép lao động và một trong những loại giấy tờ phải có khi xin phép là thư bổ nhiệm với nội dung ghi rõ “phải có thời gian công tác tại công ty mẹ trên 12 tháng”… Tại TPHCM,với vai trò quản lý nhà nước,Sở LĐ-TB&XH TPHCM đã tổ chức nhiều đợt thanh tra, kiểm tra tình hình sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn đồng thời áp dụng nhiều biện pháp như nhắc nhở,xử phạt hành chính. Tuy nhiên các biện pháp chế tài về kinh tế chưa đủ sức răn đe. Nhiều DN vi phạm sẵn sàng nộp phạt và tiếp tục duy trì quan hệ lao động với người nước ngoài trái pháp luật. Điều đáng nói là theo quy định tại Nghị định 34/CP,người nước ngoài sau 6 tháng làm việc tại VN mà không có GPLĐ thì Sở LĐ-TB&XH các tỉnh,thành đề nghị Bộ Công an ra quyết định trục xuất khỏi VN trước nay chưa có tiền lệ. Những bất cập của cơ chế cúng như quản lý lỏng lẻo chính là nguyên nhân của tình trạng LĐPT nước ngoài ào ạt vào VN không kiểm soát được. Chương 3 : Những vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp 3.1. Dự báo về tính hình nhập cư và những vấn đề đặt ra. 3.1.1. Dự báo về tình hình nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Dựa vào số liệu về dân số tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua (phần 2.1), với tỷ lệ gia tăng cơ học ngày càng tăng ta có thấy trong tương lai thành phố sẽ còn gia tăng hơn nữa số lượng người dân nhập cư do nhiều mục đích khác nhau, không chỉ 2,23% mà sau 10 năm nữa, có thể tăng lên 3 – 4% nếu không có các biện pháp giải quyết. 3.1.2. Những vấn đề đặt ra và hướng giải quyết các vấn đề. Nhà ở cho người nhập cư : Con người bao giờ cũng cần “an cư mới lạc nghiệp”. Nhưng ở đô thị còn có khoảng cách rất xa giữa cung và cầu về nhà ở, nhất là ở các đô thị như Tp.HCM. Với mật độ dân số khoảng 40
Luận văn liên quan