Đề tài Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy phát triển, đưa quốc gia tiến lên một trình độ mới. Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển dịch, Việt Nam đã coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bởi nó phản ánh trình độ, tính chất và hiệu quả của sự phát triển. Chuyển dịch cơ cấu nhằm mục tiêu phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình tham gia hội nhập. Đóng góp vào quá trình chuyển dịch ấy phải kể đến vai trò vô cùng quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp đạt được hiệu quả trong chuyển dịch sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc. Trong giai đoạn 2001 – 2005, cơ cấu ngành công nghiệp đã đạt được mở rộng theo hướng phát triển những ngành mới hiện đại hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm. Song bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm và hạn chế cần phải khắc phục để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3188 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2001-2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môc lôc LỜI MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 2 I. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 2 II. Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng giai đoạn 2001 – 2005 3 1. Kết quả thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu của ngành công nghiệp – xây dựng 3 2. Ngành công nghiệp – xây dựng - đầu tầu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 8 3. Cơ cấu ngành kinh tế trong quan hệ so sánh với các nước trong khu vực 10 III. Quá trình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2001 – 2005: những thành tựu và hạn chế 12 1. Thành tựu 12 2. Hạn chế 15 IV. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá 17 1. Coi trọng công tác quy hoạch, kế hoạch 17 2. Cơ cấu lại và hợp lý hoá ngành công nghiệp – xây dựng 18 3. Đổi mới đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng 18 4. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ 18 5. Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp 18 KẾT LUẬN 19 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 20 LỜI MỞ ĐẦU Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển kinh tế, vừa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn nhất định vừa là yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy phát triển, đưa quốc gia tiến lên một trình độ mới. Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển dịch, Việt Nam đã coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Bởi nó phản ánh trình độ, tính chất và hiệu quả của sự phát triển. Chuyển dịch cơ cấu nhằm mục tiêu phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình tham gia hội nhập. Đóng góp vào quá trình chuyển dịch ấy phải kể đến vai trò vô cùng quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp đạt được hiệu quả trong chuyển dịch sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc. Trong giai đoạn 2001 – 2005, cơ cấu ngành công nghiệp đã đạt được mở rộng theo hướng phát triển những ngành mới hiện đại hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm. Song bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều khuyết điểm và hạn chế cần phải khắc phục để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Do đó em đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005”. NỘI DUNG I. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá – hiện đại hóa là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm mục tiêu tổng quát đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Do đó trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra mục tiêu cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2005 như sau: Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 – 21%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 38 – 39%. Tỷ trọng dịch vụ 41 – 42%. Riêng đối với ngành công nghiệp và xây dựng, hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là: - Tăng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến trong GDP của toàn nền kinh tế bởi tỷ trọng của ngành là một trong những tiêu chí quan trọng quyết định sự chuyển đổi từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. - Giảm dần tỷ trọng của công nghiệp khai thác trong GDP bởi một quốc gia phát triển nhờ vào khai thác cạn kiệt tài nguyên là sự phát triển không bền vững. - Phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao đặc biệt là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Từ đó gia tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp. II. Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp – xây dựng giai đoạn 2001 – 2005 1. Kết quả thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu của ngành công nghiệp – xây dựng Nhằm thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, ngành công nghiệp đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Nhờ vậy, tỷ trọng của công nghiệp – xây dựng trong GDP không ngừng tăng lên trong những năm qua. Bảng 1: Tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP qua các năm Đơn vị: % Năm  1995  1997  1999  2001  2002  2003  2004  2005           Kế hoạch  Ước TH   GDP (giá h.hành)  100  100  100  100  100  100  100  100  100   Công nghiệp-xây dựng  28,75  32,06  34,49  38,18  38,49  39,47  40,09  38-39  41   Công nghiệp  21,85  25,52  29,05  32,32  32,59  33,14  33,84     Xây dựng  6,9  6,54  5,44  5,8  5,89  6,05  6,25     Nguồn: Tổng cục Thống kê Qua bảng số liệu tỷ trọng của ngành công nghiệp – xây dựng chiếm trong GDP tăng liên tục từ 28,75% năm 1995 lên 40,09% năm 2004. Phần trăm của công nghiệp – xây dựng trong tổng sản phẩm quốc dân năm 1995 chỉ cao hơn nông nghiệp 1,57% thì đến năm 2004 ngành công nghiệp – xây dựng đã gấp gần 2 lần phần trăm của nông nghiệp. Điều này cho thấy sự tiến bộ vượt bậc của ngành trong những năm gần đây. Trong giai đoạn 2001 – 2005, tỷ trọng trong GDP của công nghiệp – xây dựng đã tăng 2,82%, bình quân 5 năm tăng 0,56%. Năm 2005, ngành chiếm 41% trong GDP vượt mục tiêu của kế hoạch 2001- 2005 là 2 – 3%. Với đà phát triển như vậy thì khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm trong GDP đến năm 2010 sẽ vượt chỉ tiêu 42 - 43% của kế hoạch 5 năm 2006 – 2010. 1.1. Xây dựng Trong giai đoạn 2001 – 2005, tỷ trọng của xây dựng trong tổng sản phẩm quốc dân tăng từ 5,8% năm 2001 lên 6,25% năm 2004, bình quân tăng 0,11% / năm. Như vậy, ngành xây dựng đã có sự chuyển dịch tích cực theo đúng mục tiêu mà kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành đặt ra. Nhưng nếu so với tỷ trọng của ngành vào năm 1995 lại cao hơn 0,75% năm 2004, nguyên nhân là do sự gia tăng đột ngột của giá xăng dầu, giá thép; sự chậm trễ của công tác giải phóng mặt bằng và những bất cập trong quản lý đầu tư là những lý do chủ yếu hạn chế tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng. Mặc dù vậy ngành xây dựng đã có những bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại, cả trong lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị và nhà ở cũng như những công trình quy mô lớn đòi hỏi chất lượng cao, công nghệ hiện đại trong và ngoài nước. Công nghiệp vật liệu xây dựng đã chú trọng đầu tư và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều dây chuyền công nghệ có quy mô lớn, hiện đại đã được đưa vào sử dụng, đặc biệt là xi măng, gạch, sứ vệ sinh... Nhờ vậy mà sản lượng xi măng sản xuất đã hoàn thành kế hoạch đặt ra, thực hiện năm 2005 là 29,3 triệu tấn trong khi kế hoạch đặt ra chỉ cần 24,5 triệu tấn hay hoàn thành 119,6% mục tiêu kế hoạch (xem chi tiết bảng 3 ) 1.2. Công nghiệp Giá trị của ngành công nghiệp do sự đóng góp của ba ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp điện, gas, nước. Nếu coi GDP của ngành công nghiệp là 100% ta sẽ có tỷ trọng của những ngành nêu trên đóng góp trong GDP công nghiệp. Bảng 2: Cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân phân theo ngành công nghiệp giai đoạn 1995 -2004 Đơn vị: % Năm  1995  1997  1999  2001  2002  2003  2004   Công nghiệp(CN)  100  100  100  100  100  100  100   CN khai thác  22,01  24,69  29,00  28,50  26,42  28,18  30,05   CN chế biến  68,60  64,58  60,90  61,20  63,15  61,71  60,05   CN điện, gas, nước  9,39  10,73  10,10  10,30  10,43  10,11  9,9   Nguồn: Tổng cục Thống kê a. Ngành công nghiệp khai thác Tỷ trọng của công nghiệp khai thác trong GDP công nghiệp liên tục tăng từ 22,01% năm1995 lên 30,05% năm 2004. Đây là sự phát triển không phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nếu tỷ trọng của ngành tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên không tái tạo được, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của một quốc gia. Đối với Việt Nam đi lên từ sản xuất nhỏ, lạc hậu thì ban đầu phải dựa vào nguồn thu của ngành để tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển. Sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp khai thác mà điển hình là ngành khai thác dầu, đã đóng góp không nhỏ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Sản lượng dầu thô khai thác tăng liên tục qua các năm 2001: 16,8 triệu tấn; 2003: 17,6 triệu tấn, năm 2004: 20,0 triệu tấn và ước tính năm 2005 sản lượng là 18,5 triệu tấn. Mặc dù sản lượng có giảm vào năm 2005( giảm 1,5 triệu tấn so với năm 2004) song ngành dầu khí đã tạo ra những sự thuận lợi cho sự phát triển của các ngành công nghiệp chế biến và mở ra triển vọng phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác. Ngoài ra cũng phải kể đến những ngành khai thác có tốc độ phát triển cao đang dần chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của công nghiệp. Cụ thể là ngành công nghiệp nguyên liệu than. Ước tính năm 2005 sản lượng than khai thác được là 27 triệu tấn (tăng 0,7 triệu tấn so với năm 2004). Sản lượng than khai thác năm 2005 hoàn thành 168,7% mục tiêu kế hoạch 2001 – 2005 (xem chi tiết bảng 3). Có thể nói trong những năm gần đây, công nghiệp khai thác đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của ngành công nghiệp nói riêng cũng như toàn bộ khu vực công nghiệp – xây dựng nói chung. b. Ngành công nghiệp chế biến Tỷ lệ của ngành công nghiệp chế biến trong GDP công nghiệp có xu hướng giảm từ 68,6% năm 1995 xuống 60,05% năm 2004, mặc dù tỷ lệ này có tăng lên trong những năm 1999 – 2003. Mặt khác, tỷ trọng trong GDP của ngành công nghiệp chế biến năm 2004 chỉ đạt 20,3% và với tốc độ tăng trưởng liên tục giảm giai đoạn 2001 - 2004 thì đến 2020 tỷ trọng của ngành trong GDP vẫn dưới 30% ( thấp hơn ranh giới 37% mà các chuyên gia quốc tế cho rằng là điều kiện để chuyển từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp). Sự đóng góp của ngành công ngiệp chế biến vào sự phát triển của ngành công nghiệp nói riêng cũng như cả nền kinh tế nói chung là chỉ tiêu quan trọng để một quốc gia được đánh giá chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền công nghiệp hiện đại. Nhưng ở Việt Nam tỷ trọng của ngành này lại đang có xu hướng giảm, một xu hướng không phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành công nghiệp chế biến đã không hoàn thành nhiệm vụ mà toàn nền kinh tế giao phó. Sản phẩm của công nghiệp chế biến bao gồm hai loại: nông sản chế biến và sản phẩm chế tạo. Đối với nông sản chế biến do công nghệ lạc hậu, cơ sở kỹ thuật chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên những nông sản xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô mới chỉ qua sơ chế. Do đó, đóng góp của chế biến nông sản thấp và hạn chế khả năng cạnh tranh sản phẩm so với các nước trong khu vực. Đối với sản phẩm chế tạo do chi phí sản xuất tiếp tục tăng cao và sự phụ thuộc vào giá nguyên liệu nhập khẩu. Sản phẩm của ngành chủ yếu vẫn là những sản phẩm mang tính gia công lắp ráp như dệt may, da giầy, ô tô, xe máy...và sản lượng liên tục tăng trong những năm 2001 -2004. Ví dụ: ti vi lắp ráp tăng từ 1,1 triệu chiếc năm 2001 lên 2,5 triệu chiếc năm 2004 ( tăng 27,3%). Sản lượng vải lụa sản xuất cũng tăng đều qua các năm bình quân 9,3% năm ( xem chi tiết bảng 3). Chúng ta mới chỉ thực hiên gia công sản phẩm mà không phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào để từ đó giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Những ngành có hàm lượng công nghệ cao, có khả năng tạo giá trị tăng thêm, nhất là công nghệ thông tin khởi đầu từ việc lắp ráp một số linh kiện như mạch in, bóng hình...còn phát triển chậm. Đóng góp vào giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn là những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu và được hưởng chính sách bảo hộ của Nhà nước. Do đó hạn chế khả năng cạnh tranh của ngành được bảo hộ nói riêng cũng như ngành công nghiệp chế biến nói chung. c. Các ngành công nghiệp điện, gas và cung cấp nước Những ngành này là cơ sở hạ tầng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, do đó được chú trọng đầu tư phát triển. Đóng góp của ngành trong GDP công nghiệp mặc dù tăng trong những năm 1997 – 2002 nhưng từ năm 2003 trở về đây tỷ trọng của ngành có xu hướng giảm từ 10,43% năm 2002 xuống 10,11% năm2003 và năm 2004 chỉ còn 9,9%. Mặc dù vậy, ngành đã có những đóp góp quan trọng cho sự phát triển chung của toàn bộ khu vực II công nghiệp và xây dựng.Về điện đã phát triển nguồn cung cấp cả về thuỷ điện và nhiệt điện nên sản lượng điện phát ra tăng từ 30,7 tỷ KWh năm 2001 lên 46 tỷ KWh năm 2004, bình quân tăng 3,8 tỷ KWh / năm. Ước tính năm 2005 sản lượng điện sản xuất ra là 51,7 tỷ KWh, hoàn thành 117,5% mục tiêu kế hoạch 2001 – 2005 (xem chi tiết bảng 3). Đây quả thực là một dấu hiệu đáng mừng trong việc kết hợp 2 nguồn cung cấp điện: nhiệt điện và thuỷ điện. Mạng lưới điện cũng được đầu tư đảm bảo cung cấp điện cho nông thôn và một số vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, nguồn nước sạch cũng được cung cấp cho cả nông thôn, thành thị, thực hiên đồng bộ quy hoạch cung cấp điện nước cho các khu công nghiệp. Bảng 3: Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp – xây dựng Chỉ tiêu  Đơn vị tính  2001  2002  2003  2004  Kế hoạch 2005  Thực hiện 2005   Dầu thô Than  Triệu tấn Triệu tấn  16,8 12,9  16,8 16,3  17,7 19,6  20,0 26,3  15 - 16  18,5 27,0   Ti vi Vải lụa  Ng.chiếc Triệu m  1126 402  1597 455  2099 476  2478 518  750  600   Xi măng  Triệu tấn  15,4  20,4  23,3  25,3  24,5  29,0   Điện phát ra  Tỷ KWh  30,6  35,8  40,8  46,2  44,0  51,7   Nguồn: Dự thảo kế hoạch phát triển KT – XH 2006 – 2010 2. Ngành công nghiệp – xây dựng - đầu tầu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Kết quả nổi bật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là xu hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, ổn định tỷ trọng khu vực dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP nhưng giá trị tuyệt đối của từng ngành đều tăng năm sau so với năm trước. Bảng 4: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế Đơn vị: % Năm  1990  1995  2000  2001  2002  2003  2004  2005 (ước thực hiện)   GDP  100  100  100  100  100  100  100  100   Nông nghiệp  38,74  27,18  24,53  23,24  23,03  22,34  21,76  20,5   CN - XD  22,67  28,76  36,73  38,13  38,49  39,47  40,09  41   Dịch vụ  38,59  44,06  38,74  38,63  38,48  37,99  38,15  38,5   Nguồn: Tổng cục Thống kê Qua bảng trên ta thấy: trong giai đoạn 1990 – 2005, cơ cấu nền kinh tế quốc dân có bước chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp liên tục giảm từ 38,74% năm 1990, 24,53% năm 2000 xuống còn 20,5% năm 2005. Từ chỗ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nền kinh tế năm1990 thì đến năm 2005, ngành lại chiếm tỷ trọng nhỏ nhất. Đối với khu vực dịch vụ thì sau khi đạt tỷ trọng cao nhất 44,06% năm 1995 thì tỷ trọng của ngành lại có xu hướng giảm liên tục cho đến 2003.Tương ứng với sự giảm tỷ trọng này là sự tăng lên liên tục về tỷ trọng của ngành công nghiệp – xây dựng. Nếu vào năm 1990, ngành công nghiệp – xây dựng chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong nền kinh tế: 22,67% , chỉ bằng 0,58 lần so với tỷ trọng của ngành nông nghiệp thì đến năm 1995, tỷ trọng của ngành đã vượt nông nghiệp 0,58% (công nghiệp – xây dựng: 28,76%, nông nghiệp: 27,18%) và cho đến 2005 thì tỷ trọng của ngành đã gấp đôi nông nghiệp (công nghiệp – xây dựng: 41%, nông nghiệp: 20,5%). Như vậy, đóng góp của ngành công nghiệp – xây dựng trong GDP đã tăng liên tuc qua các năm , từ chỗ còn rất nhỏ bé trong nền kinh tế quốc dân thì đến nay đã đạt mức đóng góp lớn nhất. Do mức đóng góp như vậy mà tỷ lệ đóng góp của ngành vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng tăng lên tương ứng. Bảng 5: Tỷ lệ đóng góp của từng khu vực vào tốc độ tăng GDP cả nước Đơn vị: % Năm  2000  2001  2002  2003  2004   Tổng GDP  6,79  6,89  7,04  7,26  7,6   Nông nghiệp  1,1  0,69  0,91  0,72  0,8   CN – XD  2,72  2,81  3,00  3,21  3,2   Dịch vụ  2,23  2,52  2,68  2,68  3,0   Nguồn: Tổng cục Thống kê. Ngành công nghiệp – xây dựng đã đóng góp vào tỷ lệ tăng trưởng một cách tích cực. Thể hiện: tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng tăng liên tục từ 2,72% năm 2000 lên tới 3,2% năm 2004. Như vậy ngành đã vươn lên, đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế, và đang tạo đà cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xứng đáng là đầu tầu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 3. Cơ cấu ngành kinh tế trong quan hệ so sánh với các nước trong khu vực Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỉ XXI - chiến lược đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp – chúng ta đã không ngừng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng sản xuất nông nghiệp nhưng giá trị sản xuất của ngành vẫn phải tăng và đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Chúng ta đã duy trì được tỷ lệ tăng trưởng khá cao 7,5% / năm giai đoạn 2001 – 2005. Tuy nhiên, nếu lấy cơ cấu ngành kinh tế làm một thước đo về trình độ phát triển thì cơ cấu kinh tế Việt Nam năm 2003 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực vào những năm 80 của thế kỷ trước. Điều này thể hiện một sự chuyển dịch quá chậm chạp so với bạn bè trong khu vực. Bảng 6: Cơ cấu nền kinh tế các nước trong khu vực Đông Nam Á năm 2003 Đơn vị: % Nước  Nông nghiệp  Công nghiệp  Dịch vụ   Việt Nam  23.0  39,0  38,0   Philippine  14,0  32,5  53,5   Indonexia  17,0  44,0  40,0   Malaixia  9,0  49,0  42,0   Thailand  9,0  41,0  50,0   Xingapo  0,0  35,0  65,0   Nguồn: Báo cáo phát triển Thế giới năm 2005 của Ngân hàng Thế giới Như vậy, so với các nước trong khu vực thì giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm trong GDP của Việt Nam là lớn nhất, gấp 1,4 lần so với nước đứng thứ 2 là Indonexia và gấp 2,6 lần so với Malaxia và Thailand. Điều đó là do nền kinh tế Việt Nam truyền thống là sản xuất nông nghiệp đã từ lâu đời, đồng thời sự chuyển dịch cơ cấu chưa theo kịp các nước khác trong khu vực. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các nước này rất coi trọng phát triển công nghiệp, dịch vụ và tìm mọi cách nâng cao tỷ trọng của các khu vực này trong GDP. Nhưng ở Việt Nam, mặc dù công nghiệp, dịch vụ đã được chú trọng phát triển nhưng đóng góp của nó trong GDP vẫn còn nhiều hạn chế, chưa lấn át hẳn khu vực nông nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng chiếm trong GDP của Việt Nam đạt 39,0%, đứng thứ 4 trong 6 nước trên. Nếu so với các nước trong khu vực thì tỷ trọng này còn rất hạn chế, chứng tỏ trình độ phát triển công nghiệp – xây dựng của nước ta còn thấp. Ngành công nghiệp – xây dựng của chúng ta chủ yếu là ngành thu hút nhiều lao động, hàm lượng khoa học công nghệ chưa cao và nguyên liệu lại chủ yếu phụ thuộc vào nước ngoài như: dệt may, da giầy. Công nghiệp chế biến tuy đã có bước phát triển mạnh nhưng chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao. Trong khi ngành công nghiệp của các nước bạn thì đã phát triển ở trình độ cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, điển hình là công nghiệp điện, điện tử, công nghiệp hoá chất...Riêng đối với ngành dịch vụ thì chúng ta hầu như chưa biết khai thác những nguồn lực sẵn có, đồng thời việc khai thác lại chưa chú ý đến tu bổ, cải tạo. Vậy để có thể phát triển theo kịp các nước trong khu vực thì chúng ta phải chú trọng và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. III. Quá trình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2001 – 2005: những thành tựu và hạn ch
Luận văn liên quan