Đề tài Thực trạng và giải pháp rác thải sinh hoạt Hà Nội

Môi trường hiện nay đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Những biến đổi khí hậu toàn cầu gần đây đang tác động không nhỏ tới cuộc sống con người như một lời cảnh báo về sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường. Trái đất nóng lên dẫn tới băng tan làm nước biển dâng lên, thu hẹp diện tích đất liền, các thiên tai xảy ra thường xuyên hơn với sức tàn phá lớn hơn.Việt Nam không nằm ngoài vòng ảnh hưởng đó. Nước ta với đường bờ biển dài trên 3000 km sẽ bị thu hẹp rất nhiều nếu nước biển dâng lên, miền Bắc vừa trải qua đợt rét dài nhất trong 10 năm trở lại đây Vì thế bảo vệ môi trường đang là một vấn đề vô cùng cấp thiết đòi hỏi phải có sự chung tay giúp đỡ của toàn cộng đồng. Môi trường ô nhiễm có nhiều nguyên nhân: khí thải, rác thải, các sự cố tràn dầu Vấn đề mà nhiều đô thị đang phải đối mặt là rác thải sinh hoạt. Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, trung tâm kinh tế văn hóa chính trị xã hội, là một trong những thành phố lớn nhất nước, nơi có mật độ dân cư đông thứ hai trong cả nước. Lượng rác thải sinh hoạt hằng ngày rất lớn.Vì thế vấn đề rác thải mà cụ thể là làm sao để quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt hiệu quả đang được quan tâm.Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên nhóm chúng em đã đưa ra cùng nghiên cứu nhằm thấy rõ được thực trạng và từ đó nêu ra một vài ý kiến về giải pháp cho vấn đề rác thải sinh hoạt ở Hà Nội.

doc20 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4520 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp rác thải sinh hoạt Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Môi trường hiện nay đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Những biến đổi khí hậu toàn cầu gần đây đang tác động không nhỏ tới cuộc sống con người như một lời cảnh báo về sự xuống cấp nghiêm trọng của môi trường. Trái đất nóng lên dẫn tới băng tan làm nước biển dâng lên, thu hẹp diện tích đất liền, các thiên tai xảy ra thường xuyên hơn với sức tàn phá lớn hơn.Việt Nam không nằm ngoài vòng ảnh hưởng đó. Nước ta với đường bờ biển dài trên 3000 km sẽ bị thu hẹp rất nhiều nếu nước biển dâng lên, miền Bắc vừa trải qua đợt rét dài nhất trong 10 năm trở lại đây…Vì thế bảo vệ môi trường đang là một vấn đề vô cùng cấp thiết đòi hỏi phải có sự chung tay giúp đỡ của toàn cộng đồng. Môi trường ô nhiễm có nhiều nguyên nhân: khí thải, rác thải, các sự cố tràn dầu… Vấn đề mà nhiều đô thị đang phải đối mặt là rác thải sinh hoạt. Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, trung tâm kinh tế văn hóa chính trị xã hội, là một trong những thành phố lớn nhất nước, nơi có mật độ dân cư đông thứ hai trong cả nước. Lượng rác thải sinh hoạt hằng ngày rất lớn.Vì thế vấn đề rác thải mà cụ thể là làm sao để quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt hiệu quả đang được quan tâm.Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên nhóm chúng em đã đưa ra cùng nghiên cứu nhằm thấy rõ được thực trạng và từ đó nêu ra một vài ý kiến về giải pháp cho vấn đề rác thải sinh hoạt ở Hà Nội. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP RÁC THẢI SINH HOẠT HÀ NỘI I.Tổng quan về rác thải 1.Khái niệm- phân loại: Rác là một từ dùng chỉ chung những vật không có giá trị sử dụng đối với một số đối tượng nhất định. Rác là một bộ phận của chất thải tức là các chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, khí, lỏng hoặc một số dạng khác (theo Điều 2 Luật Bảo vệ môi trường ) Việc phân loại chất thải hiện nay chưa có những quy định thống nhất, tuy nhiên bằng cách nhìn thực tiễn của hoạt động kinh tế và ý nghĩa của quản lý đối với chất thải, có các cách phân loại sau đây: Phân loại theo nguồn gốc phát sinh: Chất thải từ các hộ gia đình hay còn gọi là rác thải sinh hoạt Chất thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại: là những chất thải có nguồn gốc phát sinh từ các ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Phân loại chất thải theo thuộc tính vật lý: gồm chất thải rắn, chất thải lỏng và chất thải khí. Phân loại chất thải theo tính chất hóa học: chất thải dạng hữu cơ và vô cơ hoặc chất thải dạng kim loại, chất dẻo, thủy tinh, giấy bìa… Phân loại chất thải theo mức độ nguy hại đối với con người và sinh vật như chất thải độc hại, chất thải đặc biệt độc hại… Mỗi cách phân loại có mục đích nhất định nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, sử dụng, tái chế hay kiểm soát và quản lý chất thải có hiệu quả. Riêng với các chất thải phát sinh từ khu vực đô thị bao gồm 4 nhóm: vô cơ, hữu cơ, phân bắc và chất thải nguy hiểm. Các chất thải vô cơ phát sinh chủ yếu từ các khu vực công nghiệp, thương mại và xây dựng, với một lượng nhất định đầu vào từ nền kinh tế hộ gia đình. Chất thải hữu cơ chiếm khoảng 53% tổng dòng thải được phát sinh từ công nghiệp chế biến thực phẩm, các chợ, các cửa hàng bán lẻ rau và từ các thức ăn thải ra từ kinh tế hộ gia đình. Phân bắc phát sinh chủ yếu từ hộ gia đình, với một phần ít hơn là nước thải cống từ các khách sạn, các cơ quan và các hộ gía đình có đường cống nối với hệ thống cống thoát nước thành phố. Các chất thải nguy hiểm chủ yếu phát sinh từ các bệnh viện và khu vực luyện kim hoặc xử lý kim loại. Rác thải có thể chia thành 3 loại chính sau đây: rác thải sinh hoạt (chất thải từ các hộ gia đình), rác thải sản xuất kinh doanh (phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà máy, xí nghiệp, cửa hàng…), rác thải nguy hiểm( các chất độc hại, nguy hiểm cho con người và sinh vật như chất thải y tế, chất phóng xạ…) 2. Đặc điểm Không phải tất cả các loại rác thải đều ảnh hưởng xấu đến môi trường, có những loại rác thải nếu nắm được đặc tính của nó, ta có thể biến nó thành các nguồn năng lượng mới hay tái chế để sử dụng. Trong rác thải sinh hoạt có rất nhiều thành phần, mà sự ảnh hưởng đến môi trường của chúng cũng khác nhau. Rác hữu cơ dễ phân hủy (thực vật, chất thải động vật, giấy…) có thể đem chế biến thành phân bón, ủ kín phân hủy nhờ vi sinh vật, tạo khí thiên nhiên làm nhiên liệu. Rác vô cơ (nilon, thủy tinh, chất dẻo…) có thể thu hồi tái chế hay xử lý theo từng loại. Hiện nay, lượng rác thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại tăng lên rất nhanh. Điều đáng lo ở đây là các thành phần của loại rác thải này lại ảnh hưởng nhiều đến môi trường và nguy hiểm đến đời sống con người ví dụ như các loại rác thải từ các khu công nghiệp hóa chất, cao su, chế biến thực phẩm, da, vật liệu xây dựng…hay rác thải y tế gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nước rỉ rác ngấm vào mạch nước ngầm, hoặc theo côn trùng xâm nhập vào thực phẩm, muỗi đốt từ người này sang người khác làm lây lan bệnh dịch. Đặc biệt rác thải y tế là loại rác thải rất nguy hiểm, nếu không được xử lý tốt sẽ là nguyên nhân gây mầm bệnh. Với những đặc điểm trên, chúng ta phải biết và tìm ra các cách xử lý rác hiệu quả sao cho hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến môi trường và con người được đồng thời tiết kiệm được tài nguyên. 3. Các phương thức xử lý rác thải Trên thế giới có 3 phương pháp xử lý rác chủ yếu là: thiêu đốt, ủ sinh học và chôn lấp. Ủ sinh học: đối với các loại rác thải chứa các chất hữu cơ. Chôn lấp:đối với các loại rác thải không thể chế biến được nữa. Thiêu đốt: đối với một số loại rác thải độc hại. Ở các nước phát triển các phương pháp này được triển khai mang lại hiệu quả kinh tế cao và đảm bảo an toàn cho môi trường. Tuy nhiên ở các quốc gia đang phát triển thì việc thực hiện đúng các giải pháp này không phải điều đơn giản.Tuy đảm bảo vệ sinh, gọn nhẹ nhưng chi phí lại cao, trang thiết bị rất đắt tiền nên phương pháp thiêu đốt không thích hợp với việc áp dụng đại trà ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Phương pháp ủ sinh học chi phí đầu tư ban đầu thấp, nhưng nhược điểm là quy trình kéo dài 3 – 4 tháng, xử lý bãi nơi chôn lấp để ủ rác khó làm triệt để nên dễ gây thiệt hại tới môi trường. Cuối cùng chỉ có cách chôn lấp là được sử dụng nhiều nhất. Cách này vừa dễ làm, vừa đỡ tốn kém nhưng lại có nhược điểm là không vệ sinh, làm ô nhiễm đất, nước, các loại khí sản sinh khi rác phân huỷ gây ô nhiễm không khí và cháy nổ. 4. Quy định của Nhà nước về rác thải sinh hoạt Theo điều 53 chương VI Luật Bảo vệ tài nguyên môi trường thì hộ gia đình cần có trách nhiệm thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường sau đây: Thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đến đúng nơi do tổ chức giữ gìn vệ sinh môi trường tại địa bàn quy định. Nộp đủ và đúng thời hạn các loại phí bảo hiểm môi trường theo quy định của pháp luật. Tham gia hoạt động vệ sinh môi trường khu phố, đường làng ngõ xóm, nơi công cộng và hoạt động tự quản về bảo vệ môi trường và cộng đồng dân cư. Theo điều 54 Chương VI Luật bảo vệ môi trường: Nhà nước khuyến khích cộng đồng dân cư thành lập các tổ chức tự quản bảo vệ môi trường nơi mình sinh sống nhằm thực hiện các nhiệm vụ sau: Tổ chức thu gom tập kết và xử lý rác thải, chất thải; Giữ vệ sinh đường làng ngõ xóm, khu phố nơi công cộng Tổ chức tự quản về bảo vệ môi trường được thành lập và hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách nhiệm, tuân theo quy định của pháp luật v.v… Theo chỉ thị 199/TTg của Thủ tướng chính phủ: - Về việc quản lý việc phát sinh, thu gom, vận chuyển chất thải Nghiêm cấm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, bệnh viện…cũng như các hộ gia đình đổ các loại chất thải ra sông, hồ, đường phố làm mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường. Tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật bảo vệ môi trường và các pháp luật liên quan khác của Việt NamTổ chức thu gom kịp thời và triệt để chất thải, tiến hành phân loại chất thải ngay từ nguồn thải để thuận tiện cho việc tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy. Khuyến khích việc áp dụng các công nghệ mới tronmg thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải. Kiểm soát nghiêm ngặt việc thải và vận chuyển các chất thải theo dúng các quy định về vệ sinh môi trờng. Tổ chức thực hiện nếp sống vệ sinh, văn minh, xóa bỏ các thói quen và tập quán xấu, như vứt rác thải, chất thải bừa bãi… Mỗi đô thị phải có các quy định cụ thể về các việc nói trên. - Về việc quản lý việc xử lý , tiêu hủy chất thải Tổ chức và tiến hành việc quy hoạch các bãi chôn lấp chất thải; xây dựng các bãi chôn lấp chất thải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường và đáp ứng được yêu cầu chôn lấp chất thải của địa phương mình tối thiểu là 25 năm. Có các công nghệ phù hợp để xử lý hoặc tiêu hủy chất thải đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường, đặc biệt đối với chất thải công nghiệp nguy hại cần phải được xử lý triệt để. Có các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường do các bãi chôn lấp chất thải cũ gây ra v.v… Các quy định, văn bản pháp luật của Nhà nước về vấn đề rác thải sinh hoạt nhìn chung phù hợp với hiện trạng nước ta. Tuy nhiên việc thực hiện chưa tốt nên trên thực tế vẫn chưa hiệu quả. Đội ngũ những người đảm bảo việc thực hiện các quy định này còn thiếu và yếu . II. Thực trạng rác thải sinh hoạt Hà Nội 1. Tình trạng chung Nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã được hơn 20 năm. Cuộc sống người dân đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực: mức sống được nâng lên rõ rệt, hàng tiêu dùng nhiều hơn cả về số lượng và chủng loại, các dịch vụ tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tốt thì cuộc sống hiện đại cũng làm nảy sinh những vấn đề nan giải. Rác sinh hoạt là một trong số đó. Cuộc sống được cải thiện cũng có nghĩa là con người tiêu dùng nhiều hơn, các vật dụng đẹp hơn, làm từ nhiều loại chất liệu hơn, bền hơn và cũng khó phân hủy hơn. Ngày càng nảy sinh nhiều loại chất thải rắn có tính chất độc hại cao và phức tạp. Theo kết quả quan trắc về chất thải thì lượng rác thải rắn nguy hại chiếm khoảng 16%, trong đó hơn 10% là chất dẻo PVC và 6% chất thải là các loại: pin, ắc quy, bơm kim tiêm, nhiệt kế thuỷ ngân, bóng đèn hỏng có chứa thuỷ ngân…Khối lượng rác tăng chóng mặt đã gây sức ép lớn cho các bãi rác của thành phố. Tổng hợp lượng chất thải phát sinh của thành phố Hà Nội 2006 Nguồn phát sinh Khối lượng (tấn/ngày) Khối lượng (tấn/năm) Chất thải sinh hoạt 2.350 803.000 Chất thải công nghiệp (nguy hại chiếm khoảng 15%) 350 128.000 Chất thải xây dựng 950 347.000 Chất thải y tế nguy hại 2 720 Phân bùn bể phốt 370 135.000 (Nguồn: URENCO 2006) Thành phần chất thải sinh hoạt năm 2006 STT Thành phần Tỷ lệ (%) 1 Chất hữu cơ: thức ăn thừa, rau, vỏ quả… 49.03 2 Giấy vụn: giấy, bìa… 2.90 3 Nhựa: chai, lọ, hộp, nhựa vụn… 4.20 4 Nilon 7.48 5 Cao su, da vụn, giả da… 4.15 6 Vải 2.15 7 Cành cây, gỗ 1.03 8 Thuỷ tinh: chai lọ, thuỷ tinh vỡ… 0..79 9 Kim loại: vỏ hộp, sợi kim loại… 1.00 10 Sành sứ 7.36 11 Chất trơ: đất đá, cát, gạch vụn, bê tông, các tạp chất nhỏ khó phân loại khác… 26.22 Tổng cộng ~100 Độ pH trung bình: 6.5-7.0 Độ ẩm: 67-70% Tỷ trọng 0.4-0.5 (tấn/m3) ( Nguồn: URENCO, 2006) Theo số liệu thống kê, trong năm 2002, khối lượng chất thải rắn đô thị tính bình quân đầu người một ngày tại các đô thị lớn dao động khoảng từ 1-1,2 kg và ở các đô thị nhỏ khoảng 0,5 kg. Con số này đã tăng lên không ngừng, đặc biệt từ năm 2001 cùng với sự phát triển của các đô thị và điều kiện sống của người dân. Trung bình mỗi ngày người dân Hà Nội thải ra khoảng 2.700 tấn rác gồm rác hữu cơ, vô cơ và rác tái chế, thì chỉ có khoảng 160 tấn rác vô cơ là không thể tái chế được cần phải chôn lấp, hai loại rác còn lại đều có thể tận dụng để chế biến làm phân bón, phục vụ Việc chôn lấp chung các loại rác như vậy vừa gây lãng phí tài nguyên, vừa tốn kém công thu gom, vận chuyển, diện tích chôn lấp sản xuất nông nghiệp hoặc tái chế thành các sản phẩm có ích. Bãi rác Nam Sơn có tổng diện tích chôn lấp rác là 83,5 ha với thời gian hoạt động đến năm 2015 nhưng khả năng đến năm 2010 đã hết chỗ đổ. Ông Phạm Ngọc Hải- Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Môi trường Đô thị lo lắng cho biết: “Với khối lượng rác tăng trung bình hàng năm 15% như trong vòng 5 năm trở lại đây thì chỉ tới 2010, bãi chôn lấp này sẽ đầy. Hiện nay, bãi chôn rác Nam Sơn đang phải tiếp nhận khoảng 2.500 tấn rác/ngày". 2. Quá trình thu gom( phân loại và vận chuyển) rác thải sinh hoạt Công ty Môi trường Ðô thị cho biết, hiện nay, Hà Nội có 2 lò đốt rác tiêu chuẩn là lò đốt rác y tế tại Từ Liêm và lò đốt rác công nghiệp tại khu xử lý chất thải Nam Sơn, Sóc Sơn. Do bãi xử lý rác Nam Sơn cách Hà Nội tới 56 km, nên trước khi đưa về đây xử lý, rác vẫn được tập kết rải rác ở các huyện ngoại thành gây mất trật tự và vệ sinh. Các bãi rác là nơi kiếm sống của nhiều người thất nghiệp, trẻ lang thang. Họ không hề có bất cứ trang bị gì để đảm bảo sức khỏe khi tiếp xúc với trực tiếp với rác. Không ai dám đảm bảo là sau vài tiếng bới rác kiếm sống ở đây, người bới rác khi mang những thứ kiếm được bán lại cho các chủ đầu mối phế liệu lại không “nhân tiện” phát tán luôn loại bệnh dịch nào đó. Ngoài mối lo phát tán bệnh dịch, các bãi rác cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ với người bới rác, đặc biệt là trẻ em. Các mảnh thủy tinh hay kim loại sắc nhọn, kim tiêm, hóa chất độc hại được đổ lẫn cùng rác sinh hoạt…đều tác động xấu đến sức khỏe thậm chí cướp đi sinh mạng của các em. Ô nhiễm không chỉ ở các bãi rác mà còn hiện diện ngay từ khâu thu gom do việc thu gom rác hoàn toàn thủ công. Hiện nay Hà Nội chỉ có cách dùng chổi, xẻng gom rác lên xe rồi đưa đến điểm tập kết. Từ đấy rác sẽ lên những chiếc ô tô chuyên dụng chạy ra bãi rác ngoại ô đợi chôn lấp. Rác thỉnh thoảng rơi từ những chiếc xe ra đường phố. Còn ở ngoại thành, người dân đổ rác bừa bãi: bên đường đi, bờ ruộng, xuống ao hồ làm ô nhiễm môi trường sống nghiêm trọng. Hơn nữa, các xe rác lưu hành trên những con đường nhỏ vào giờ tan tầm gây tắc nghẽn giao thông. Mặc dù đã có sự sắp xếp giờ chạy cho xe chở rác nhưng vấn đề này vẫn chưa được giải quyết và gây nhiều bức xúc trong người dân. Thêm vào đó, công tác thu gom chủ yếu vẫn là thu hỗn hợp chứ không được phân loại ngay tại nguồn. Việc thu hồi các chất có khả năng tái chế, tái sử dụng như: nilon, giấy vụn, kim loại, nhựa, thuỷ tinh… chủ yếu do những người nhặt rác thực hiện. Tỷ lệ này chiếm từ 15-20% công tác thu gom chất thải. Việc tái chế, tái sử dụng chất thải rắn vẫn còn ở mức thấp, khoảng 2-5% tổng lượng chất thải rắn phát sinh được chuyển hoá thành phân vi sinh compost. Sau một thời gian tiến hành các công việc chuẩn bị, từ cuối tháng 10-2003, Cty Môi trường đô thị Hà Nội đã tổ chức thực hiện thí điểm mô hình phân loại rác thải tại nguồn ở phường Phan Chu Trinh. Dự kiến ban đầu của thành phố là xây dựng mạng lưới thu gom vận chuyển rác thải sinh hoạt trên địa bàn quận Hoàn Kiếm (tại 9 phường là Tràng Tiền, Phan Chu Trinh, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo, Chương Dương, Phúc Tân, Lý Thải Tổ, Cửa Nam, Hàng Bông) gồm 259 điểm thu gom trực tiếp, 180 điểm đặt thùng rác 2 ngăn, 75 xe thu gom và 201 công nhân làm nhiệm vụ thu gom (một số phường không dặt các thùng thu gom phân loại vì có tuyến đường quá hẹp, không có chỗ đặt). Thời gian thu gom từ 18h -20h hàng ngày, việc vận chuyển được thực hiện bằng 20 xe chuyên dùng, trong dó 10 xe chở rác hữu cơ đi nhà máy chế biến phân vi sinh Cầu Diễn, 10 xe chở các chất thải khác đi bãi chôn lấp Nam Sơn. Tuy nhiên khi đi vào thực hiện rác qua sự phân loại của người dân lại bị trộn lẫn trong khâu vận chuyển, bên cạnh đó ý thức và nhận thức người dân chưa cao nên rác không được phân loại triệt để. Nguồn tài chính hoạt động của công ty Môi trường đô thị bao gồm ngân sách do Nhà nước cấp và các hợp đồng vệ sinh với nhân dân. Mức phí vệ sinh hiện nay cho các hộ gia đình là 2000 đồng/người/tháng. Trong những năm qua doanh thu hàng năm của công ty Môi trường đô thị chỉ chiếm khoảng 30% tổng chi phí của công ty. 3. Quá trình xử lý rác thải sinh hoạt Hiện nay, các bãi rác không đạt tiêu chuẩn. Phần lớn các bãi chôn lấp không có lớp chống thấm ở dưới đáy và thành ô chôn lấp, không có hệ thống thu gom và xử lý nước rác, khí; quy trình đổ rác không đúng kỹ thuật… Vì vậy đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm không khí, rò rỉ, thẩm thấu nước rác, gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm. Người dân khu vực xung quanh bãi rác bị ảnh hưởng nặng nề và đã phản ứng tiêu cực bằng cách chặn không cho xe rác vào đổ( bãi rác Nam Sơn tháng 11/1999). Hầu hết rác thải của Hà Nội được xử lý ở khu xử lý rác Nam Sơn (huyện Sóc Sơn) và ở Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn với phương pháp vi sinh có công suất 30.000 m3/năm. Tuy nhiên, bãi rác Nam Sơn đang ở trong tình trạng quá tải, theo dự đoán đến năm 2010 bãi rác Nam Sơn sẽ đầy và Hà Nội lại phải tìm bãi rác mới. Xí nghiệp chế biến rác Cầu Diễn chưa từng hoạt động hết công suất, 2 lò đốt rác tại Từ Liêm và Nam Sơn không đáp ứng được nhu cầu xử lý chất thải rắn của thành phố. 4. Nguyên nhân Nguyên nhân sâu xa của những thực trạng trên là kinh phí cho việc quản lý và xử lý rác nói chung và rác thải sinh hoạt nói riêng còn thiếu thốn.Ngoài ra Thành phố vẫn chưa huy động được nguồn lực từ trong nhân dân: doanh thu phí vệ sinh còn thấp (nguyên nhân một phần do việc qui định phí đối với dịch vụ vệ sinh còn thấp: 2000 đồng/người/tháng, một phần do chưa có biện pháp thu phí phù hợp nên tỷ lệ phí thu được chỉ chiếm 55% tổng mức phí phải thu trong nhân dân). Công ty Môi Trường đô thị chỉ được thành phố trả tiền cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chôn lấp rác thải sinh hoạt thông qua hợp đồng đặt hàng. Còn việc tái chế rác hữu cơ thành phân compost, URENCO chưa được thành phố thanh toán mà phải lấy tiền bán phân để bù đắp một phần chi phí. Tuy nhiên việc sử dụng phân compost chưa phổ biến đối với người nông dân trước hết là do chi phí sản xuất cao dẫn tới giá thành cao, người nông dân không đủ tiền mua. Hơn nữa người dân chưa quen sử dụng loại phân này do đó URENCO phải vay vốn để sản xuất và sản phẩm chủ yếu là cho, tặng nhằm khuyến khích người dân Sự thiếu thốn về kinh phí tiếp tục dẫn đén sự thiếu thốn về nhân lực,phương tiện trong ngành môi trường đô thị. Do đó công tác phân loại, tái chế chất thải còn chưa tốt. Trên thực tế công nghệ xử lý rác thải của Hà Nội còn đơn giản, thủ công. Công ty MTĐT chỉ mang rác đến bãi thải và đổ lộ thiên mà thậm chí không hề qua nén ép (công đoạn đơn giản nhất làm giảm thể tích rác thải). Các công nghệ hiện đại như thiêu đốt chưa được áp dụng đối với rác thải ở Hà Nội. Trên địa bàn Thành phố cũng đã có một nhà máy xử lý rác thành phân bón hữu cơ (đặt tại Cầu Diễn), nhưng do các khâu xử lý phân loại còn yếu nên nguyên vật liệu đầu vào không thoả mãn dẫn đến công suất vừa thấp vừa tốn công (chỉ đạt công suất 30% năm). Công nghiệp tái chế chất thải thì vẫn còn manh mún chưa thực sự được coi trọng. Do chưa thực hiện được công tác phân loại rác ngay từ nguồn thải nên Hà Nội vẫn chôn rác sinh hoạt lẫn với các loại rác thải nguy hại khác (trong đó thành phần chủ yếu là rác thải công nghiệp và một phần rác thải bệnh viện). Chính vì vậy khối lượng rác thải đem đi đổ thải tại bãi rác vẫn còn lớn làm tốn diện tích bãi thải và không mang lại hiệu quả kinh tế. Hơn nữa những bãi thải trước đây của Hà Nội trong tình trạng vừa không có đất phủ, vừa là nơi đổ thải hỗn hợp nên đã trở thành nguồn gây ô nhiễm lớn. Hơn nữa cơ chế phân cấp quản lý và chế tài chưa hiệu quả. Do việc phân cấp trách nhiệm quản lý môi trường chưa cụ thể đến những cơ quan có trách nhiệm nên trên thực tế Thành phố vẫn chưa thực hiện được việc xử phạt các hành vi đổ chất thải ra nơi công cộng. Người dân không bị ngăn chặn và xử phạt nên kém ý thức tuân thủ nội quy giữ gìn vệ sinh nơi công cộng. Điều này khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Do tập quán canh tác nông nghiệp, sống dựa vào tự nhiên với nhiều quan niệm sai lầm cổ hủ như “trời sinh voi sinh cỏ…” nên dù đã bước sang nền kinh tế thị trường được hơn hai mươi năm, người dân Việt Nam vẫn chưa có những nhận thức đúng đắn về các vấn đề đang nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hi