Đề tài Tìm hiểu thực tế pháp luật lao động trong giai đoạn hiện nay

BLLĐ năm 1994 ra đời đánh dấu một bước phát triển về mặt lập pháp của hệ thống pháp luật lao động Việt Nam, được xây dựng trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, Hiến pháp 1992 về xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, đồng thời tham khảo luật các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, qua bảy năm thực hiện với tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, nhiều quy định của luật lao động chưa được chặt chẽ còn chung chung, thậm chí có những vấn đề còn bỏ ngỏ Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLLĐ năm 1994 đã được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02/04/2002( có hiệu lực từ ngày 01/01/2003) với nhiều quy định cụ thể hơn. Với mong muốn được tìm hiểu thực tế pháp luật lao động trong giai đoạn hiện nay, vì vậy em đã chọn Đề số 11 làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ. Đề bài vừa có lý thyết, vừa có tình huống chính là một cách ra đề hay, giúp chúng em vừa tìm hiểu lý thuyết vừa áp dụng vào giải quyết tình huống. Do kiến thức còn hạn chế, khả năng nghiên cứu còn chưa sâu nên bài làm của em không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự đóng góp từ phía thầy, cô để bài viết của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!!!

doc19 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực tế pháp luật lao động trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thẩm quyền của tòa án là một trong chế định quan trọng tố tụng hình sự. Thẩm quyền càng phân định rõ ràng và khoa học thì có tính khả thi và kết quả xét xử của tòa án càng khả quan và chính xác bấy nhiêu. BLTTHS 2003 quy định mở rộng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện đồng thời Quốc hội cũng có nghị quyết quy định lộ trình hoàn thiện quy định đó trên thực tế. Pháp lệnh tổ chức quân sự năm 2003 cũng quy định phân biệt thẩm quyền của tòa án quân sự và Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, trong qúa trình áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực này cũng gặp nhiều vướng mắc và bất cập nhất định. Muốn xây dựng thẩm quyền của tòa án trước hết phải xây dựng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án. Thẩm xét xử sơ thẩm là là cơ sở để xây thẩm quyền của tòa án các cấp. Cho nên, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm, không những giúp ta thấy được quá trình hoàn thiện các quy định về của pháp luật về chế định này theo lịch sử phát triển của pháp luật tố tụng hình sự mà còn có ý nghĩa quan trọng để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án. I.Khái quát chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. Quá trình tiến hành giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó có thể nói việc xét xử vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng. Xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên của xét xử. Theo Từ điển Luật học: “Xét xử sơ thẩm một vụ án hình là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật” Quy định thẩm quyền xét xử của các Tòa án trong lĩnh vực hình sự ở mỗi quốc gia là khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: hệ thống pháp luật, cách thức tổ chức của các cơ quan tư pháp, trình độ năng lực thẩm phán, điều kiện xét xử … mà quy định về thẩm quyền cũng khác nhau. Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự, đại học Luật Hà Nội, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án bao gồm thẩm quyền về mặt hình thức và thẩm quyền về mặt nội dung. Trong giới hạn của bài viết em xin đi sâu vào thẩm quyền về mặt hình thức. Theo đó: Thẩm quyền xét xử vụ án sơ thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép tòa án được xét xử sở thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội, nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật. Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án: - Đường lối chính sách của Đảng; - Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự; - Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; - Tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; - Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên; Biên chế cơ sở vật chất; - Tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm; Từ các căn cứ trên có thể chia thẩm quyền xét xử sơ thẩm làm ba: 1- Thẩm quyền xét xử theo vụ việc; 2- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ; 3- Thẩm quyền xét xử theo đối tượng. Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn xét xử đầu tiên có ý nghĩa quan trọng trong cả quá trình xét xử vụ án. Bởi vì, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, toàn bộ nội dung vụ án sẽ được xem xét trong giai đoạn này. Do vậy việc xác định đứng đắn thẩm quyền xét xử sơ thẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt chính trị xã hội: Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm; Đảm bảo được quyền tự do, dân chủ của nhân dân; Đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của các hoạt động tố tụng; Là cơ sở để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp; Là cơ sở cho cho việc xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm; Đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách quan các vụ án hình sự. II. Các quy định của luật TTHS các quy định này về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.Thẩm quyền xét xử theo vụ việc Thẩm quyền xét xử theo vụ việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm. 1.1.Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực (khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003) Nếu thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực được quy định hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xảy ra sẽ được xử lý kịp thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe và góp phần bảo vệ trật tự xã hội.Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở nước ta cho thấy, thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và của Tòa án quân sự khu vực ngày càng được mở rộng một cách hợp lý. Khoản 1 Điều 170 quy định: “1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh ; Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, và 323 của bộ luật hình sự” Quy định trên cho thấy thẩm quyền xét xử vụ việc của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại BLTTHS năm 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt có mức phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 đến 15 năm tù, trừ những tội phạm quy định tại tội phạm a, b, c Điều 170 BLTTHS. Nghị quyết tại số 24/2003/ QH11 về việc thi hành BLTTHS năm 2003 đã ghi rõ tại mục 3: “Kể từ ngày BLTTHS có hiệu lực, những tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự có đủ điều kiện thực hiện thì giao thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS. Những tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực chưa đủ điều kiện thì thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội quy định điểm a, b và c khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2003 nhưng chậm nhất đến ngày 01/7/2009, tất cả các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực thực hiện thống nhất thẩm quyền mới quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS” Như vậy thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện đã được tăng cường, mở rộng. Việc mở rộng thẩm quyền xét xử vụ án cho Tòa án xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, các Thẩm phán ở Tòa án cấp huyện đã được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ so với trước đây, có khả năng xét xử các vụ án mà mức phạt cao nhất của khung phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống; Thứ hai, việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp huyện sẽ tránh được viêc tồn đọng án ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giành thời gian cho Tòa án cấp tỉnh tập trung giải quyết xét xử các vụ án phức tạp. Thứ ba, cơ sở vật chất của tòa án cấp huyện đã phần nào được cải thiện nâng cấp. Số lượng biên chế thẩm phán quy định cũng là lý do giúp cho cán bộ ngành tòa án cấp huyện có điều kiện làm việc tốt hơn và yên tâm công tác; Thứ tư, việc mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện giảm bớt được chi phí và thời gian tiến hành tố tụng, tránh được việc trì hoãn phiên tòa do lý do vắng mặt của những người tham gia tố tụng; Thứ năm, một trong những mục đích của việc xét xử đó là giáo dục quần chúng nhân dân chấp hành pháp luật và việc xét xử ở Tòa án cấp huyện có thể thực hiện tốt nhất mục đích này. 1.2.Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự quân sự cấp quân khu (khoản 2 Điều 170 BLTTHS 2003) So với quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được quy định trong BLTTHS không có gì khác nhau. Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 –Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử hai vụ việc sau: - Những vụ án hình sự về tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; - Những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới mà mình lấy lên xét xử. Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm quyền Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó, chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều tra viên ở cấp huyện mà xác đinh những loại vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, Viện kiểm xát và Tòa án cấp tỉnh lấy lên và để điều tra, truy tố xét xử các vụ án sau: - Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành). - Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, sĩ quân công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người. 2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Thông thường, vụ án hình sự được được xét xử ở tòa án ở tòa án nơi tôi phạm thực hiện. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 1 Điều 171 như sau: Vụ án hình sự được xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tôi phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử nơi xét xử là nơi kết thúc điều tra. Thông tư số 01/2005/TTLT- TANDTC-VKSNDTC- BQP- BCA ngày 18/4/2005 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công an hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự như sau: Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự cấp nào thì do Tòa án quân sự cấp đó xét xử. Việc phân định địa bàn trong Quân đội để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự do Bộ quốc phòng quy định cụ thể. Trong hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc trường hợp có nhiều tòa án quân sự khác nhau có thẩm quyền xét xử do vụ án có nhiều người phạm tội thuộc nhiều đơn vị khác nhau hoặc do người thực hiện tội phạm ở nhiều nơi, nếu viện kiểm sát quân sự truy tố trước Tòa án quân sự nào thì Tòa án đó có quyền xét xử. Khoản 2 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định đối với trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài : - Nếu bị cáo xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử. - Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử. - Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước thì từng trường hợp được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử . - Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự thì do Tòa án quân sự quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Tòa án quân sự trung ương. - Nếu vụ án xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc hoạt động ở nước ngoài thì Tòa án Việt Nam nơi có sân bay cảng mà tàu bay, tàu biển đó trở về đầu tiên ở trong nước hoặc nơi tàu bay, tàu biển được đăng ký có thẩm quyền xét xử. Điều 172 BLTTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu biển ,tàu bay của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài lãnh hải Việt Nam đang hoạt động không phận hoặc lãnh hải Việt nam thuộc về Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay, bến cảng trở về đầu tiên ở trong nước hoặc nơi máy bay, tàu biển được đăng ký.Theo Luật quốc tế thì tàu bay, tàu biển mang quốc tịch. Vì vậy, tội phạm xảy ra trên tàu bay đã rời khỏi không phận và lãnh hải của Việt Nam vẫn là tội phạm xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển trong trường hợp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam. 3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng Bộ luật hình sự năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể đối tượng nào thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, đối tượng nào thuộc Tòa án quân sự. Tuy nhiên Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002, có quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự như sau: 1.Quân nhân tại ngũ, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý. 2.Những người không thuộc những quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội liên quan đến bí mật quân sự chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nếu phạm tội một trong các trường hợp sau: -Tội phạm mà họ thực hiện có liên quan đến bí mật quân sự -Tội phạm mà họ thực hiện gây thiệt hại cho quân đội. Trường hợp trong cùng một vụ án, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, trong trường hợp này, Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Thông tư liên tịch 01/TTLT ngày 18/04/2005 của Tòa án tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công an “Hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự” như sau : - Quân nhân tại ngũ gồm hạ sĩ quan, hạ sĩ quân và quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam. - Công chức quốc phòng bao gồm những công dân đang được tuyển dụng vào phục vụ trong quân đội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và Luật quân đội nhân dân Việt Nam; Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc đang kiểm tra tình trạng sẵn sang động viên, tình trạng sẵn sang chiến đấu theeo quy định của pháp luật về lực lượng dự bị động viên. Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc quân đọi chiến đấu theo quy định của pháp luật về dân quân tự vệ; Những người được tập trưng làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội quản lý bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội trưng tập hoặc do nhiệm vụ nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị trưng tập và trực tiếp quản lý họ để đáp ứng các nhu cầu khác Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 quy định: quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách riêng ra để xét xử thì Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình. tổ Điều 4, Điều 5 Pháp lệnh chức Tòa án quân sự quy định : Những người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ quân đội; hoặc những người bị phát hiện là phạmtội khi nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự về những tội phạm liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm khác do Tòa án nhân dân xét xử. Qua những quy định nêu trên có thể thấy thẩm quyền xét xử rộng hơn so với Tòa án quân sự, cụ thể là xét xử hầu hết các đối tượng phạm tội, trừ trường hợp đối tượng thuộc thầm quyền xét xử của tòa án quân sự được quy định trong pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002. III- Những bất cập vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về thẩm quyền xét sơ thẩm của tòa án. 1.Những bất cập vướng mắc khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án. Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 170 BLTTHS thì: Tòa án nhân dân cấp tỉnh có quyền lấy những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp dưới lên xét xử. Nhưng cho nay, khi văn thông tư liên ngành số 02/ TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định về trường hợp TAND cấp tỉnh được phép lấy vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện lên xét xử đã hết hiệu lực thì vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Thông thường, TAND cấp tỉnh lấy vụ án những vụ án mà người phạm tội là Kiểm sát viên, Thẩm phán, sĩ quan công an, cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, những người có chức sắc tôn giáo … lên để xét xử. Thứ hai, khi tòa án thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tòa án chuyển vụ án cho thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên BLTTHS lại chưa có những quy định cụ thể về thủ tục chuyển vụ án như thế nào và cũng chưa có văn bản nào dưới điều chỉnh về vấn đề này. Vì vậy trên thực tế áp dụng quy định này còn chưa thực sự thống nhất, có trường hợp sau khi tòa án nhận thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền xét xử của mính thì chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát chuyển cho cấp có thẩm truy tố; có Tòa án lại chuyển thẳng cho tòa án cấp có thẩm quyền. Thứ ba, hiện nay BLTTHS 2003 mới chỉ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với người việt Nam phạm tội ở nước ngoài bị đưa về xét xử nhưng chưa có quy định cụ thể về việc người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam hoặc trường hợp phạm tội vừa thực hiện ở trong nước vừa thực hiện tội phạm ở nước ngoài thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nào? Vì vậy các cơ quan tiến hành vẫn còn lung túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Trên thực tế, các vụ án mà bị can, bị cáo là người nước ngoài hoặc trường hợp vừa thực hiện trong nước vừa thực hiện ở nước ngoài hiện nay do Tòa án cấp tỉnh xét xử. Còn các vụ mà người bị bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có lợi ích liên quan đến vụ án là người nước ngoài thì vẫn chưa có sự hướng dẫn thống nhất. Thứ tư, hiện nay sự phân định thẩm quyền xết xử trong tòa án nhân dân và Tòa án quân sự vẫn chưa được quy định trong BLTTHS năm 2003 mà mới chỉ quy định trong pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn. Theo quy định tại Điều 5 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nếu tách được vụ án thì Tòa nào xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa đó; nếu vụ án không tách được thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án đó. Thứ năm, những bất cập về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất: Trình độ của những người tham gia xét xử vẫn còn hạn chế; cơ sở về vật chất còn thiếu thốn,chưa có khả năng xét xử lưu động nhiều. 2.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. 2.1. Hoàn thiện về pháp luật - Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 Điều 126 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: “Tòa án nhân dân và Viên kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bỏa vệ tính mạng, tìa sản, tự do,danh dự và nhân phẩm của công dân”. Hệ thống tòa án ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc hành chính –lãnh thổ. Tuy nhiên, theo tinh thần của Nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020, để thực hiện cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả xét xử, hệ thống Tòa án nước ta được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào các đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực, Tòa án Phúc thẩm, Tòa thượng thẩm và Tòa án nhân dân tối cao.H Do vậy, để có thể thực hiện được chủ trương đúng đắn này, việc sửa đổi quy định tại Điều 126 Hiến pháp 1992 là cần thiết và hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49 nói trên. Điều 135 Hiến Pháp quy định: “ Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân”. Khi hệ thống Tòa án được tổ chức theo khu vực và theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào một địa bàn hành chính nhất định thì việc báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân địa phương phải được xem xét. Theo pháp luật hiện hành, Tòa án cấp huyện phải báo cáo công tác trước Hội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doct7889 t7909ng hnh s7921 h7885c k7923 h432417ng1.doc
  • docxlao 2737897ng h7885c k7923 h432417ng 2..docx
Luận văn liên quan