Đề tài Vai trò của pháp luật thuế (file word)

Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách sâu rộng và đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước. Với mục tiêu là thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển ổn định, vững chắc. Một trong những nỗ lực của Chính Phủ đó là công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, phát huy hiệu quả vai trò của thuế đối với đời sống kinh tế xã hội. Thuế quan và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng, chi phối và phụ thuộc nhau. Bất kỳ một nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền đánh thuế tuy nhiên để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực, nhà nước phải sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của mình để thực hiện các mục tiêu đã định trước. Sau 20 năm cải cách, đến nay Việt Nam đã hình thành hệ thống chính sách thuế khá đầy đủ, bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế và thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Với hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh, thuế đã trở thành công cụ đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước, là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước góp phần tích cực trong thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, đổi mới khoa học công nghệ, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để tăng thêm hiểu biết vai vai trò của thuế chúng ta cùng nhau tìm hiểu vai trò của pháp luật thuế ở nước ta trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia nhiều hiệp định thương mại, hiệp định đầu tư, hiệp định chống đánh thuế hai lần và là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.

doc18 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1974 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của pháp luật thuế (file word), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách sâu rộng và đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước. Với mục tiêu là thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển ổn định, vững chắc. Một trong những nỗ lực của Chính Phủ đó là công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, phát huy hiệu quả vai trò của thuế đối với đời sống kinh tế xã hội. Thuế quan và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng, chi phối và phụ thuộc nhau. Bất kỳ một nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền đánh thuế tuy nhiên để nguồn thu từ thuế trở thành hiện thực, nhà nước phải sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của mình để thực hiện các mục tiêu đã định trước. Sau 20 năm cải cách, đến nay Việt Nam đã hình thành hệ thống chính sách thuế khá đầy đủ, bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế và thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Với hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh, thuế đã trở thành công cụ đảm bảo nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước, là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước góp phần tích cực trong thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, đổi mới khoa học công nghệ, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để tăng thêm hiểu biết vai vai trò của thuế chúng ta cùng nhau tìm hiểu vai trò của pháp luật thuế ở nước ta trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia nhiều hiệp định thương mại, hiệp định đầu tư, hiệp định chống đánh thuế hai lần và là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. NỘI DUNG I. KHÁI NIỆM THUẾ Thuế vừa là phạm trù kinh tế vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Nhà nước cần có nguồn vật chất để để duy trì sự tồn tại và thực hiện các chức năng của mình. Bằng quyền lực của mình nhà nước đã thu một phần của cải vật chất trong xã hội để đảm bảo yêu cầu về vật chất đó. Quan hệ giữa thu và nộp nguồn vật chất này chính là thuế. Ban đầu quan hệ thu thuế được biểu hiện dưới hình thức thu là hiện vật, dần dần cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì chuyển sang hình thức giá trị. Ở Việt Nam, thuế cũng xuất hiện từ thời đầu của chế độ phong kiến, mục đích nhằm tập trung nguồn công quỹ cho nhà vua nhưng chủ yếu dưới dạng cống vật. Ban đầu mới hình thành nên các loại thuế như thuế đò, thuế chợ, thuế thổ sản... sang đến triều nhà Nguyễn xuất hiện thuế xuất cảng thuế nhập cảng... Hệ thống thuế thời phong kiến nhìn chung là thiếu chuẩn mực về đạo lý và pháp lý. Sang thời kỳ Pháp thuộc, chính phủ Pháp đặt ra rất nhiều loại thuế mang tính chất vơ vét bóc lột. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, song song với việc xóa bỏ hệ thống thuế phi nhân đạo (như : Thuế thân, thuế thổ trạch...) nhà nước dần dần hình thành nên hệ thống thuế mới ngày càng ổn định và hoàn thiện hơn. Các Mác viết: ‘‘thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước’’. Dưới góc độ kinh tế học, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng  thuế là ‘‘một hình thức phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không hoàn lại’’. Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế nhận định: ‘‘thuế là một trật tự đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa vụ thu nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ’’. Mặc dù có rất nhiều cách định nghĩa như vậy nhưng chúng ta đều có thể nhận thấy những nét chung, những đặc tính nhất định sau : Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc được thể hiện ở chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điều kiện mà không phải quan hệ thanh toán dù trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Đối với các cơ quan thu thuế, khi thay mặt nhà nước thực hiện các hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối với người nộp thuế; Thứ hai, thuế gắn liền với yếu tố quyền lực. Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước tạo ra cho thuế tính cố định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Các yếu tố như đối tượng nộp thuế, thuế suất,... được quy định trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho quốc gia; Thứ ba, Thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Đây chính là điểm quan trọng để phân biệt thuế với các khoản thu từ phí, lệ phí. Bất kỳ đối tượng nào, khi đủ điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước không phân biệt họ đã nhận được lợi ích công cộng nào, một người chỉ phải nộp phí, lệ phí khi đã nhận được môt lợi ích nhất định từ phía nhà nước. Nhà nước thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình, và kết quả đạt được là các công trình công cộng góp phần tạo sự bình yên cho xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia và sự phát triển thịnh vượng các chế độ phúc lợi công cộng... đồng thời, đối tượng thụ hưởng kết quả này lại chính là đối tượng nộp thuế. Nói cách khác, người nộp thuế được hoàn trả một cách gián tiếp khoản tiền đã nộp cho nhà nước. II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ Như chúng ta đã biết để đảm bảo cho bộ máy nhà nước được duy trì và phát triển cần có một nguồn tài chính ổn định để tạo điều kiện về cơ sở vật chất; Nguồn thu từ thuế để củng cố an ninh quốc phòng, phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế xã hội, để bảo vệ trật tự xã hội, phát triển văn hóa giáo dục, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc..... Thuế đã ra đời như một tất yếu khách quan, dần dần phát triển theo xu hướng ngày càng hoàn thiện và đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Thuế đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế đất nước, bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước, đóng góp vào nguồn thu cho ngân sách nhà nước đảm bảo sự tồn tại của nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử dụng như là công cụ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định mà mình đã đề ra. 1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước Thuế quan đóng vai trò quan trọng, nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 90% trong tổng thu ngân sách nhà nước). Theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Ngân sách nhà nước: ‘‘Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật’’. Mặt khác, theo quy định tại điều 30, điều 31 Luật Ngân sách nhà nước quy định về nguồn thu của ngân sách trung ương, nguồn thu của ngân sách địa phương đa phần các nguồn thu về của ngân sách nhà nước được thu từ các loại thuế như thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người thu nhập cao; thuế nhà đất; thuế tài nguyên; thuế môn bài;.... Theo kết quả theo dõi thuế quan qua các thời kỳ tồn tại và phát triển cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân sách nhà nước, đảm nhiệm hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Cụ thể trong giai đoạn 2001 – 2005, ngành hải quan luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài chính, số thu năm sau luôn cao hơn số thu năm trước : Năm 2001 đạt 29.381 tỷ đồng, năm 2002 đạt 36.74 tỷ đồng, năm 2003 đạt 39.178 tỷ đồng, năm 2004 đạt 46.017 tỷ đồng, năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng và năm 2006 đạt khoảng 58.000 tỷ đồng (như vậy tốc độ tăng thu hàng năm vào khoảng 15%), đây chính là nỗ lực rất lớn của ngành hải quan trong bối cảnh chúng ta đang thực cắt hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế. Đặc biệt, đây là giai đoạn đầu thực hiện xác định giá trị hải quan theo nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT, tình trạng gian lận qua giá còn khá phổ biến nhưng ngành đã tập trung chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo nhiệm vụ thu thuế đồng thời chống thất thu qua gian lận trị giá. Ngày 7-11-2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải thực hiện cam kết về thủ tục nhập khẩu. Mức cam kết chung: Chúng ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong vòng 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong vòng 5 - 7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm. Việc cắt giảm thuế theo biểu thuế hiện hành đã ảnh hưởng không nhỏ tới nguồn thu của ngân sách nhà nước. Vì vậy, để cân đối thu – chi ngân sách nhà nước chúng ta cần có những biện pháp để đảm bảo thu – chi một cách hợp lý. Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy động được một phần lớn nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng – kinh tế; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp; các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá thông tin văn học nghệ thuật, thể dục – thể thao – khoa học công nghệ; Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội; Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội… Công tác kiểm soát chi ngân sách qua kho bạc, hoạt động thanh tra, kiểm tra tài chính đã được tăng cường, thực hiện công khai minh bạch quyết toán và dự toán hàng năm. Điều 8 Luật ngân sách nhà nước quy định: ‘‘Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tồng số chi thường xuyên và tích lũy ngày càng cao vào đầu tư vào phát triển’’. Với những lý do đó, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có và mong muốn có được hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. 2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà nước Tác động của thuế quan đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho nước đánh thuế. Tuy nhiên, đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan lại làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế thế giới, nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Thuế quan cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ, kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan cao cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hiện tượng gian lận thuế, trốn thuế (bởi khi trốn thuế hay gian lận thuế thì người ta phải bỏ ra một khoản tiền được gọi là chi phí để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế). Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời, nó cũng không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu. Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập: Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế quan đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa các nước thuộc liên minh trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi ích thương mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những sản phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên. Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thực hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Ví dụ: Với thuế giá trị gia tăng nhà nước có biểu thuế suất khác nhau đối với những loại hàng hóa khác nhau để điều tiết nền kinh tế xã hội. Cụ thể, áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu, không phân biệt đối tượng và hình thức xuất khẩu; như vậy, mức thuế suất này được áp dụng đối với cả hoạt động xuất khẩu tại chỗ, các dịch vụ xuất khẩu khi đáp ứng điều kiện của luật, Nhà nước áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu thể hiện mục đích thúc đẩy xuất khẩu phát triển; Bên cạnh mức thuế suất 0% nhà nước còn áp dụng mức thuế suất 5% đối với các hàng hóa dịch vụ ưu đãi, khuyến khích phát triển đầu tư. Các sản phẩm thiết yếu (như: thuốc, các trang thiết bị y tế,...), các sản phẩm công nghiệp nặng hoặc công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ công cộng... đều thuộc diện ưu đãi và áp dụng mức thuế suất 5%; Mức thuế suất cao nhất trong biểu thuế giá trị gia tăng, đó cũng là mức thuế suất chuẩn, áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ thông thường. Thông qua việc áp dụng các loại thuế suất khác nhau mà nhà nước thể hiện ý chí của mình trong đó. Đối với các loại hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân thì mức thuế suất thường ở mức thấp hơn. Điều này càng được thể hiện rõ hơn ở biểu thuế đối với một số loại hàng hóa đặc biệt là đối tượng điều chỉnh của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Cụ thể, mức thuế suất cao nhất được áp dụng với bia chai, bia hộp; và mức thuế thấp nhất là 10% áp dụng đối với xăng, các chế phẩm dùng pha chế xăng và dịch vụ kinh doanh golf. Chúng ta có thể thấy được nhà nước đã dùng chính sách thuế để điều tiết nền kinh tế quốc gia, thể hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều đó có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động và quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế nhà nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng hạn chế. Chính điêu này sẽ làm ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành, nghề, qua đó bảo đảm sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế. Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trượng hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hôi, ở mỗi quốc gia có những định hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại; Trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội. Ở Việt Nam bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thực hiện chính sách xã hội. 3. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ các quy định gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức... Thông qua sổ sách, chứng từ hóa đơn cơ quan quản lý thuế có thể đánh giá phần nào cơ cấu tổ chức và hoạt động của các đơn vị kinh doanh từ đó nhà nước có thể nắm bắt thực tế tình hình để điều tiết nền kinh tế ngày càng có hiệu quả hơn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước. Để có được số liệu đầy đủ và chính xác đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh, chúng ta cũng cần thắt chặt khâu quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế tăng cường giám sát quá trình kê khai nộp thuế giá trị gia tăng. Tùy theo từng loại đối tượng mà có những biện pháp kiểm tra phù hợp. Với những hoạt động kinh doanh thông thường, các chủ thể kinh doanh hàng tháng phải kê khai đầy đủ chính xác thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế không phân biệt có phát sinh nghĩa vụ thuế thực tế trong tháng hay không, đối tượng kê khai p