Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

Trong giai đoạn 2001-2010, mặc dù bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động bất lợi, song Việt Nam vẫn đạt được một số thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2010 là 7,2%, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nhiều nước trong khu vực. Có thể nói một trong những nhân tố quan trọng góp phần đạt được tốc độ tăng trưởng này là Việt Nam đã khơi thông được các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra.

pdf11 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2468 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỔI MỚI ĐẦU TƯ CÔNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 TS. Vũ Nhữ Thăng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính Bộ Tài chính 1. Thực trạng đầu tư công giai đoạn 2001-2010 Trong giai đoạn 2001-2010, mặc dù bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động bất lợi, song Việt Nam vẫn đạt được một số thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2010 là 7,2%, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nhiều nước trong khu vực. Có thể nói một trong những nhân tố quan trọng góp phần đạt được tốc độ tăng trưởng này là Việt Nam đã khơi thông được các nguồn lực tài chính trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đặt ra. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế và vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1991-2010 so với GDP (giá hiện hành). Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng GDP (%) Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP (giá hiện hành) 1991-1995 8,21 28,2 1996-2000 7,00 33,3 2001-2005 7,49 39,1 2006-2010* 6,90 42,7 Nguồn: TCTK. *Số năm 2010 là số ước thực hiện. Tổng mức đầu tư toàn xã hội trong 10 năm qua liên tục tăng và duy trì ở mức cao. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 35,4% năm 2001 lên dự kiến khoảng 41% năm 2010. Trong đó, bình quân giai đoạn 2001-2005 là 39,1%, giai đoạn 2006-2010 ước vào khoảng là 42,7%. Tính chung cả giai đoạn 2001-2010, tổng đầu tư xã hội bình quân đạt xấp xỉ 41% GDP, cao hơn so với mục tiêu đề ra và cao hơn so với mức 30,7% GDP giai đoạn 1991-2000 (Bảng 1). Hình 1: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2001-2010 2 Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK và Bộ Tài chính. Trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội, đầu tư của khu vực công có một vị trí khá quan trọng. Bình quân giai đoạn 2001-2010, chiếm 45,7% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đầu tư của khu vực công bao gồm các nguồn chủ đạo là: đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN), đầu tư tín dụng Nhà nước, đầu tư từ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó đầu tư của NSNN và từ các DNNN chiếm trên 75% đầu tư của khu vực công (Hình 1). Cụ thể như sau:  Vốn đầu tư từ NSNN giai đoạn 2001-2010 chiếm khoảng 51% tổng vốn đầu tư của khu vực Nhà nước và bằng khoảng 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tính theo tỷ lệ trên GDP, vốn đầu tư từ NSNN trong giai đoạn 2001-2010 lên đến 9,45%1. Từ năm 2003, để tăng thêm nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, việc đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu được triển khai thực hiện. Đối tượng được đầu tư bằng nguồn trái phiếu Chính phủ là một số dự án quan trọng, thiết yếu thuộc các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục và các dự án quan trọng đối với nền kinh tế, cần đầu tư song chưa thể cân đối trong kế hoạch đầu tư hàng năm. Bình quân giai đoạn 2006- 2010, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thực hiện ước bằng khoảng 5,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.  Vốn tín dụng đầu tư giai đoạn 2001-2010 ước chiếm khoảng 22,6% tổng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước, tương đương khoảng 4,2% GDP. 1 Bao gồm cả nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 3 Nguồn vốn tín dụng nhà nước trong thời gian qua đã được tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, xúc tiến đầu tư, phát triển các ngành then chốt như đóng tàu, điện, nước... nhằm góp phần nâng cao tiềm lực của doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.  Tỷ trọng đầu tư của khu vực DNNN trong tổng vốn đầu tư nhà nước tuy có giảm trong những năm gần đây, song vẫn là nguồn vốn quan trọng. Bình quân giai đoạn 2001-2010, tổng vốn đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp và tổng công ty Nhà nước chiếm khoảng 25,4% tổng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước. Nhờ đó, khu vực DNNN đã phát huy được vai trò đầu tàu trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế quan trọng. Hình 2: Cơ cấu vốn đầu tư nhà nước giai đoạn 2001-2010 (%). Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK và Bộ Tài chính Đánh giá về kết quả thực hiện đầu tư công giai đoạn 2011-2020, có thể rút ra một số nhận định sau: Thứ nhất, đầu tư từ khu vực nhà nước đã trở thành một động lực quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế thời gian qua, tạo ra các tác động lan tỏa lớn, nhất là các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng.... Đầu tư Nhà nước đã phát huy vai trò đặc biệt quan trọng trong những giai đoạn kinh tế khó khăn, đầu tư từ các khu vực khác suy giảm (ví dụ như giai đoạn 2008-2009). 4 Thứ hai, cơ cấu đầu tư công đã có một số chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Đã tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng, góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xử lý bất hợp lý vùng miền; đã chú trọng đầu tư cho các ngành nghề có lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế. Ngân sách nhà nước cũng đã tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển con người, nâng cao trình độ lực lượng lao động. Cụ thể, trong tổng mức đầu tư phát triển từ NSNN, đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng chiếm một tỷ trọng khá lớn. Bình quân giai đoạn 2001-2010, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm trên 90% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN. Nguồn lực NSNN đã được tập trung cho việc phát triển các dự án hạ tầng thiết yếu trong nền kinh tế, các dự án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp. Thứ ba, đã hình thành được bộ khung pháp luật tương đối đồng bộ để điều chỉnh các hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư nhà nước nói riêng. Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư đến nay cơ bản đã bao quát được hầu hết hoạt động đầu tư từ khu vực nhà nước. 2. Một số vấn tồn tại trong đầu tư công hiện nay Tuy đạt được các kết quả tích cực nói trên, song thực tiễn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thời gian qua cũng đã chỉ ra một số vấn đề tồn tại, vướng mắc cần được tiếp tục tháo gỡ trong thời gian tới. Những tồn tại chủ yếu là: Thứ nhất, đầu tư từ NSNN còn dàn trải2; hiệu quả đầu tư một số công trình hạ tầng chưa cao. Hệ số ICOR có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Nếu như hệ số ICOR của giai đoạn 1996-2000 tính theo giá hiện hành là 4,7 thì sang giai đoạn 2001-2005 hệ số này trung bình là 5,1 và giai đoạn 2006-2010 tăng lên 6,1. Nguyên nhân làm cho ICOR của Việt Nam cao một phần là do Việt Nam đang trong giai đoạn tập trung đầu tư cho hạ tầng cơ sở, bao gồm cả hạ tầng cơ sở ở vùng sâu, vùng xa và đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, so với các quốc gia khác đã trải qua giai đoạn phát triển tương đồng như Việt Nam thì hệ số ICOR của Việt Nam hiện nay vẫn ở ngưỡng cao (Bảng 2). Điều này một mặt cho thấy mô hình tăng trưởng của Việt Nam đang chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, mặt khác 2 Năm 2010, các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phân bổ vốn NSNN cho tổng số 16.658 dự án, nhiều hơn năm 2009 khoảng 850 dự án; số vốn bình quân phân bổ cho một dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân phân bổ cho dự án nhóm A ở Trung ương năm 2010 xấp xỉ 115 tỷ đồng, chỉ bằng 46% mức bố trí năm 2007. 5 thể hiện hiệu quả đầu tư trên một số còn hạn chế. Trong giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP (giá hiện hành) đã tăng đáng kể so với giai đoạn trước đó. Nếu như bình quân giai đoạn 1991-1995, tỷ lệ này là 28,2% thì sang giai đoạn 1996-2010 tăng lên 33,2%, và sau đó giai đoạn 2001-2005 là 39,1% và giai đoạn 2006-2010 ước vào khoảng 41%. Việc tăng trưởng quá dựa vào vốn sẽ đặt nền kinh tế nước ta trong thời gian tới trước một số thách thức nhất định. Bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới hiện vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường có khả năng ảnh hưởng đến việc huy động nguồn vốn để duy trì tổng mức đầu tư toàn xã hội như giai đoạn 10 năm qua. Khi đó, việc duy trì mức đầu tư cao cho tăng trưởng GDP cao chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Bên cạnh đó, đầu tư phát triển con người, đầu tư cho một số lĩnh vực như y tế, giáo dục - đào tạo trong 10 năm qua tuy đã được quan tâm hơn so với trước song chưa tạo được sự chuyển biến tương xứng về chất lượng cung cấp dịch vụ. Chi đầu tư cho nghiên cứu khoa học có tăng nhưng hiệu quả ứng dụng các kết quả nghiên cứu chưa tương xứng. Bảng 2: ICOR của một số nước trong khu vực Quốc gia Giai đoạn Tăng trưởng GDP (%) Tỷ lệ đầu tư/GDP (%) ICOR Hàn Quốc 1961-1980 7,9 23,3 3,0 Đài Loan 1961-1980 9,7 26,2 2,7 Indonesia 1981-1996 6,9 25,7 3,7 Thái Lan 1981-1995 8,1 33,3 4,1 Trung Quốc 2001-2006 9,7 38,8 4,0 Nguồn: Trích dẫn từ David Dapice và các cộng sự (2008). Thứ hai, cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân còn chưa có sự đột phá mạnh, vì thế sự tham gia của khu vực tư nhân vào đầu tư phát triển còn hạn chế, nhất là trong việc đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế. Tỷ trọng đầu tư của khu vực Nhà nước trong tổng mức đầu tư toàn xã hội tuy có giảm so với trước song vẫn còn ở mức cao. Điều này đã làm cho NSNN không có đầy đủ điều kiện để thực hiện các nhiệm vụ chi quan trọng khác như chi cho đầu tư phát triển con người, chi cho giáo dục, y tế. Bên cạnh đó, chi NSNN cho 6 đầu tư chưa phát huy được vai trò “vốn mồi” để thu hút sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Thứ ba, cơ cấu đầu tư từ khu vực Nhà nước vẫn còn một số bất hợp lý. Về nguyên tắc, đầu tư của Nhà nước chỉ nên tập trung vào việc phân bổ các nguồn lực trong xã hội cho các lĩnh vực mà cơ chế thị trường không thể hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả. Song trên thực tế, đầu tư của nhà nước của nước ta vẫn còn tập trung vào một số ngành mà khu vực tư nhân có khả năng và sẵn sàng đầu tư. Trong khi đó, đầu tư vào các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đối cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chưa hình thành được các tiêu chí cụ thể trong việc xác định “tính ưu tiên” trong các dự án đầu tư. Nhiều dự án được thực hiện song lại chưa tuân thủ theo các mục tiêu cần thực hiện trong phát triển kinh tế xã hội chung. Việc phân bổ vốn đầu tư từ NSNN còn dàn trải, số vốn bình quân phân bổ cho các dự án hàng năm thấp3. Việc phân bổ vốn dàn trải dẫn tới tình trạng nhiều dự án bị kéo dài tiến độ, chậm đưa vào sử dụng, làm gia tăng chi phí đầu tư. Hơn nữa, cơ cấu đầu tư theo vùng miền còn chưa hợp lý. Nhiều địa phương có xu hương muốn hướng đến một cơ cấu đầu tư tương tự nhau, hơn là hình thành một cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương. Chất lượng xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển ở nhiều ngành trong một số khâu còn yếu, dẫn tới hiệu quả đầu tư một số công trình, dự án chưa cao. Hiệu quả của việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong các DNNN cũng chậm được cải thiện. Khu vực DNNN đang được ưu tiên sử dụng rất nhiều nguồn lực như vốn, tài nguyên và vị thế kinh doanh. Một số lĩnh vực kinh doanh DNNN đang chiếm vị thế độc quyền. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của DNNN lại không tương xứng với những nguồn lực được ưu tiên đó. Tình trạng thất thoát và lãng phí đầu tư trong các doanh nghiệp, tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước chưa có giải pháp xử lý hữu hiệu. Nhiều doanh 3 Năm 2010, các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phân bổ vốn NSNN cho tổng số 16.658 dự án, nhiều hơn năm 2009 khoảng 850 dự án; số vốn bình quân phân bổ cho một dự án là gần 7 tỷ đồng; vốn bình quân phân bổ cho dự án nhóm A ở Trung ương năm 2010 xấp xỉ 115 tỷ đồng, chỉ bằng 46% mức bố trí năm 2007. 7 nghiệp sử dụng vốn đầu tư vào các ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính, dẫn đến hiệu quả thấp hoặc thua lỗ. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song có nguyên nhân là chậm bổ sung chế tài để hướng các doanh nghiệp ưu tiên, tập trung nguồn lực cho phát triển các hoạt động kinh doanh chính theo nhiệm vụ chính được giao. Thứ tư, việc giám sát, kiểm tra thực hiện chưa được chú trọng đúng mức. Tuy đã thực hiện phân cấp mạnh trong cơ chế quản lý vốn đầu tư song chế độ thông tin báo cáo, kiểm tra, giám sát trong một số khâu chưa được điều chỉnh tương xứng nên công tác thống kê, tổng hợp, đánh giá gặp nhiều khó khăn. 3. Định hướng đổi mới đầu tư công giai đoạn 2011-2020 Nhu cầu nguồn lực cần có cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã hội giai đoạn 10 năm tới là rất lớn. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng được xác định là một trong ba đột phá quan trọng trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020. Trong điều kiện nguồn lực huy động là có giới hạn, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính, nhất là nguồn vốn nhà nước phải được xem là chìa khoá quan trọng. Đối với tài chính nhà nước, huy động và phân bổ nguồn lực phải tập trung những lĩnh vực và khu vực mà việc phân bổ nguồn lực của tài chính phi nhà nước không thể hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả (ví dụ, xử lý các “thất bại của thị trường”). Bên cạnh đó, để tối đa hóa lợi ích thu được, việc phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính phải hướng vào việc thực hiện các ưu tiên chiến lược (các đột phá) của nền kinh tế trong từng giai đoạn . Việc xác định “thứ tự ưu tiên” phải được xem là một trong những yêu cầu cốt lõi trong việc nâng cao hiệu quả của đầu tư nhà nước trong thời gian tới. Đồng thời trong phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước cho đầu tư cần phải đảm bảo tuân thủ tính kỷ luật tài khoá, hiệu quả và hiệu lực tài chính; coi trọng tính minh bạch và công khai. Theo đó, các giải pháp đặt ra trong việc nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước cho giai đoạn 10 năm tới là: (1) Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội 8 - Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư nhà nước, chỉ tập trung vốn đầu tư nhà nước phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế thiết yếu, không có khả năng thu hồi vốn hoặc mức độ thu hồi vốn thấp, rủi ro cao, dịch vụ công quan trọng, một số ngành sản xuất then chốt, đóng vai trò chủ đạo và những lĩnh vực mà tư nhân không thể hoặc chưa thể thực hiện được. - Phân định rõ nội dung, phạm vi đầu tư giữa trung ương và địa phương thông qua việc đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương. Nguyên tắc chung là những việc mà địa phương không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả thì mới để trung ương thực hiện nhằm tạo ra sự chủ động cho địa phương. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất cả các địa phương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch, năng lực và tài lực của từng địa phương. - Phát huy vai trò định hướng của đầu tư nhà nước để thu hút nguồn vốn đầu tư của xã hội. Coi nguồn đầu tư nhà nước là “vốn mồi” đề thu hút các nguồn lực xã hội, đầu tư của khu vực tư nhân đầu tư vào nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế, đặc biệt là hệ thống giao thông. Tạo điều kiện bình đẳng trong đấu thầu xây dựng và thực hiện các công trình, dự án đầu tư bằng vốn ngân sách trên cơ sở hiệu quả cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. - Ưu tiên tập trung sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước cho xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; tập trung nâng cấp phát triển hạ tầng giao thông tại vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị, các trục giao thông huyết mạch liên kết các vùng kinh tế trọng điểm, phát triển trục giao thông Bắc – Nam4. (3) Nâng cao hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực đầu tư Nhà nước - Nghiên cứu sửa đổi Luật ngân sách nhà nước cho phù hợp với yêu cầu cải cách và quản lý theo hướng tăng nguồn lực cho ngân sách địa phương để chủ động thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội, cùng với tăng cường trách nhiệm trong quản lý nguồn lực tài chính của chính quyền địa phương và các cơ quan, đơn vị trong việc sử dụng nguồn lực được giao. 4 Theo Quyết định số 35/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, NSNN cần tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông hàng năm đạt 3,5-4,5% GDP. 9 - Hoàn thiện khung pháp lý về phân công, phân cấp và hệ thống phân bổ NSNN. Xây dựng nguyên tắc, căn cứ lập dự toán chi đầu tư phát triển, bố trí vốn, thanh toán và quyết toán vốn nhằm đảm bảo tập trung vốn đầu tư hoàn thành công trình theo kế hoạch tài chính trung hạn và tiến độ công trình, giảm dần và tiến tới xóa bỏ tình trạng phân chia bình quân và dàn mỏng nguồn lực, qua đó nâng cao hiệu quả sử dụng. - Nghiên cứu xây dựng hệ thống các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách cũng như xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả chi ngân sách. Trên cơ sở đó thực hiện phân loại các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên để bảo đảm kinh phí thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. - Hoàn thiện khung pháp lý để xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn, xem kế hoạch chi đầu tư là một cấu phần của kế hoạch tài chính - ngân sách trung hạn, đảm bảo chi đầu tư công được giới hạn trong khả năng nguồn lực và thống nhất với các ưu tiên chính sách của Chính phủ. Qua đó, đảm bảo việc phân bổ nguồn lực hàng năm được định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội trong trung và dài hạn, tăng cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong phân bổ nguồn lực. (4) Đổi mới cơ chế tín dụng đầu tư nhà nước Đầu tư bằng tín dụng nhà nước phải gắn liền với nâng cao hiệu quả sử dụng và đảm bảo khả năng trả nợ. Đổi mới phương thức phát triển tín dụng nhà nước theo nguyên tắc thương mại (tín dụng nhà nước chỉ khắc phục những bất cập do thiếu hoặc không đảm bảo các điều kiện về tài sản cầm cố, thế chấp, hoặc do qui mô vay vốn quá lớn, thời hạn dài…) nhằm nâng cao kỷ cương, kỷ luật tài chính và đảm bảo tính bền vững. (5) Thu hút có hiệu quả, đa dạng hoá các nguồn lực trong xã hội để đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - Đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nghiên cứu mở rộng việc áp dụng hình thức bán hoặc chuyển nhượng quyền quản lý, khai thác có thời hạn một số công trình cơ sở hạ tầng để huy động nguồn vốn của xã hội cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. - Triển khai có hiệu quả Quyết định soó 71/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công ty. 10 - Tạo hành lang pháp lý đẩy mạnh mô hình quỹ đầu tư phát triển địa phương để góp phần huy động và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội địa phương. - Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách “xã hội hóa” đầu tư trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt khác cũng tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ, xóa bỏ dần thế độc quyền qua đó người dân có cơ hội được tiếp cận với một chất lượng của dịch vụ ngày càng cao. (6) Đổi mới phương thức quản lý đầu tư công, tăng cường công khai minh bạch trong hoạt động đầu tư công; nâng cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm toán hoạt động đầu tư công - Thực hiện đổi mới phương thức quản lý đầu tư công, trong đó cần đặc biệt coi trọng nguyên tắc công khai minh bạch và giám sát độc lập. - Nâng cao hiệu quả của công tác công khai ngân sách nói chung cũng như chi ngân sách nhà nước cho đầu tư công nói riêng. - Tăng cường quản lý, giám sát, nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn vốn NSNN. Đảm bảo hiệu quả đầu tư nhà nước từ xác định chủ trương, lập và duyệt dự án đến thực hiện dự án. Đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với các công trình trọng điểm quốc gia, của HĐND đối với các dự án đầu tư trên địa bàn; tăng cường giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm tra công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản của nhà nước. Tóm lại, hoạt động đầu công trong giai đoạn 2001-2010 đã có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu đầu tư cũng đã có bước chuyển tích cực qua đó góp phần quan trọng vào việc duy trì tăng trưởng và ổn định kinh tế tế vĩ mô và tăng cường xoá đó
Luận văn liên quan