Khóa luận Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam

Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập với nền kinh tế, văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập đó phải kể đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Thực tế, trong những năm gần đây, Việt Nam – Hàn Quốc đang cố gắng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Cùng với sự giao lưu hợp tác về kinh tế là sự gia tăng các quan hệ về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc đã và đang trở thành điểm nóng của dư luận xã hội. Theo điều tra tại Sở thống kê Hàn Quốc, trong tổng số 320.063 cuộc hôn nhân của người Hàn Quốc năm 2001 thì có 10.006 cuộc hôn nhân giữa người Hàn Quốc và người nước ngoài và đến năm 2006 thì có đến 30.208 cuộc hôn nhân với người nước ngoài trong tổng số 332.752 cuộc hôn nhân, tăng gấp khoảng ba lần. Trong đó, số cuộc hôn nhân với phụ nữ Việt Nam năm 2001 là 134 cuộc nhưng đến năm 2006 đã lên tới 10.131 cuộc, tăng 75 lần và đầu năm 2008 là 25.000 cuộc và dự kiến trong tương lai sẽ còn tiếp tục tăng thêm nữa [15]. Đây được coi như một hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực tế trong những năm qua cho thấy, việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc về cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật về HN&GĐ Việt Nam, góp phần tăng thêm sự hiểu biết cũng như mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt – Hàn nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại hàng loạt các vấn đề nảy sinh như tình trạng buôn bán phụ nữ, núp dưới hình thức kết hôn với người nước ngoài trong đó có kết hôn với người Hàn Quốc đang diễn biến ngày càng phức tạp với tính chất và quy mô hoạt động phạm tội có chiều hướng gia tăng. Bọn tội phạm đã lợi dụng sơ hở của pháp luật trong tư vấn môi giới hôn nhân với người nước ngoài để lừa nhiều phụ nữ ở các vùng nông thôn nghèo, trình độ học vấn thấp sau đó qua biên giới bán cho các chủ chứa, nhiều phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc bị xúc phạm nhân phẩm, danh dự, bị hành hạ dã man thậm chí còn bị chính chồng mình sát hại, trong đó có những người phải trốn về nước trong tình trạng không quốc tịch do đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Hàn Quốc và rơi vào hoàn cảnh trắng tay. Tất cả những điều đó đang làm cho dư luận hết sức bức xúc bởi hậu quả mà nó để lại không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm đánh giá đúng thực trạng của tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài mà đặc biệt là với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam để qua đó, đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của hiện tượng kết hôn này, đồng thời có những biện pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi tham gia quan hệ kết hôn với người nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Hàn Quốc và giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em quyết định chon đề tài “ Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

doc59 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và chủ động hội nhập với nền kinh tế, văn hóa của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong xu thế hội nhập đó phải kể đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc. Thực tế, trong những năm gần đây, Việt Nam – Hàn Quốc đang cố gắng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Cùng với sự giao lưu hợp tác về kinh tế là sự gia tăng các quan hệ về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc đã và đang trở thành điểm nóng của dư luận xã hội. Theo điều tra tại Sở thống kê Hàn Quốc, trong tổng số 320.063 cuộc hôn nhân của người Hàn Quốc năm 2001 thì có 10.006 cuộc hôn nhân giữa người Hàn Quốc và người nước ngoài và đến năm 2006 thì có đến 30.208 cuộc hôn nhân với người nước ngoài trong tổng số 332.752 cuộc hôn nhân, tăng gấp khoảng ba lần. Trong đó, số cuộc hôn nhân với phụ nữ Việt Nam năm 2001 là 134 cuộc nhưng đến năm 2006 đã lên tới 10.131 cuộc, tăng 75 lần và đầu năm 2008 là 25.000 cuộc và dự kiến trong tương lai sẽ còn tiếp tục tăng thêm nữa [15]. Đây được coi như một hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực tế trong những năm qua cho thấy, việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc về cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật về HN&GĐ Việt Nam, góp phần tăng thêm sự hiểu biết cũng như mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước Việt – Hàn nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại hàng loạt các vấn đề nảy sinh như tình trạng buôn bán phụ nữ, núp dưới hình thức kết hôn với người nước ngoài trong đó có kết hôn với người Hàn Quốc đang diễn biến ngày càng phức tạp với tính chất và quy mô hoạt động phạm tội có chiều hướng gia tăng. Bọn tội phạm đã lợi dụng sơ hở của pháp luật trong tư vấn môi giới hôn nhân với người nước ngoài để lừa nhiều phụ nữ ở các vùng nông thôn nghèo, trình độ học vấn thấp sau đó qua biên giới bán cho các chủ chứa, nhiều phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc bị xúc phạm nhân phẩm, danh dự, bị hành hạ dã man thậm chí còn bị chính chồng mình sát hại, trong đó có những người phải trốn về nước trong tình trạng không quốc tịch do đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được nhập quốc tịch Hàn Quốc và rơi vào hoàn cảnh trắng tay... Tất cả những điều đó đang làm cho dư luận hết sức bức xúc bởi hậu quả mà nó để lại không chỉ là trước mắt mà về lâu dài, nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, pháp luật quốc gia và quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm đánh giá đúng thực trạng của tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài mà đặc biệt là với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam để qua đó, đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của hiện tượng kết hôn này, đồng thời có những biện pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho phụ nữ Việt Nam khi tham gia quan hệ kết hôn với người nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Hàn Quốc và giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em quyết định chon đề tài “ Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc những năm qua ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở nước ta, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu các khía cạnh của quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến ở những mức độ khác nhau. Trong đó phải kể đến Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Hồng Bắc về vấn đề “ Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam” và luận án tiến sĩ của tác giả Nông Quốc Bình về vấn đề “ Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam”. Đặc biệt trong thời gian qua, trước sự bức xúc của dư luận xã hội về thực trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài bị xúc phạm về danh dự nhân phẩm, đã có nhiều bài viết đề cập đến tình trạng trên, trong đó phải kể đến bài viết “ Dư luận xã hội về hôn nhân có yếu tố nước ngoài” của tác giả Hoàng Bá Thịnh - Bộ môn xã hội học giới và gia đình, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn. Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Thắng “ Thử tìm nguyên nhân vấn đề phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài” đăng trên tạp chí Luật học số 6/2008. Tuy vậy, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc. Vì vậy đây là đề tài nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về vấn đề này. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, phân tích những quy định hiện hành của pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; - Đánh giá thực trạng tình hình kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam; Kiến nghị những giải pháp nhằm hạn chế những tiêu cực của hiện tượng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài nói chung và với công dân Hàn Quốc nói riêng. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không có tham vọng đề cập tới tất cả các vấn đề liên quan đến thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài nói chung mà chỉ tập trung phân tích và làm sáng tỏ thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề ra những giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trước thực trạng gia tăng ngày càng nhiều hiện tượng này. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để nghiên cứu thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc trong những năm qua ở Việt Nam, tác giả đã sử dụng một số phương pháp: - Phương pháp phân tích - Phương pháp tổng hợp - Phương pháp so sánh 5. Cơ cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu như sau: Chương 1. Sơ lược pháp luật điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Chương 2. Thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với công dân Hàn Quốc và một số giải pháp nhằm hạn chế tiêu cực trong việc kết hôn có yếu tố nước ngoài. Chương 1: SƠ LƯỢC PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VIỆC KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1 Khái niệm chung 1.1.1.Khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài Ở nước ta trong hơn một thập kỷ qua, đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển và không còn là hiện tượng hiếm hoi trong đời sống xã hội. Vì vậy, việc điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài đã trở thành một yêu cầu cấp bách nhằm làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân các nước liên quan. Để điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật khác nhau trong từng thời kỳ mà điển hình là Pháp lệnh HN & GĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được Uỷ ban thường vụ Quốc hội (khoá IX) thông qua ngày 2/12/1993, pháp lệnh là sự cụ thể hóa quy định tại điều 53 Luật HN&GĐ1986. Pháp lệnh đã định ra những nguyên tắc làm cơ sở cho việc chon luật được áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ HN&GĐ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đã ký nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước mà mở đầu là Cộng hòa dân chủ Đức năm 1980. Có thể nói, các văn bản pháp luật trên đã góp một phần rất quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài. Sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000(Luật HN&GĐ2000 ) đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, Luật đã dành hẳn một chương(Chương IX ) để điều chỉnh quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài. Khoản 14 điều 8 Luật HN&GĐ2000 quy định: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình: Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 điều 100 thì: “Các quy định của chương này cũng được áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài” Như vậy, theo các quy định trên, quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài có thể được hiểu là các quan hệ HN&GĐ sau: Thứ nhất: Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài: Như vậy, một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài là vấn đề quốc tịch của các bên chủ thể. Quốc tịch được hiểu là mối quan hệ pháp lý hai chiều, được xác lập giữa cá nhân với quốc gia nhất định, trong xã hội hiện đại, quốc tịch là căn cứ pháp lý duy nhất để xác định ai là công dân của một quốc gia và trên cơ sở đó, làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ giữa Nhà nước và công dân. Ở Việt Nam, vấn đề này được quy định trong Luật quốc tịch 2008, trong đó người nước ngoài được hiểu là người không có quốc tịch của nước nơi mà họ đang cư trú bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch: Mặc dù Luật quốc tịch 2008 không quy định cụ thể về khái niệm người có quốc tịch nước ngoài nhưng tại khoản 1 điều 3 khi giải thích thuật ngữ “ quốc tịch nước ngoài” thì có thể hiểu, người có quốc tịch nước ngoài là người có quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam. Người có quốc tịch nước ngoài có thể là người có một hoặc nhiều quốc tịch nước ngoài. Thực tế hiện nay, đa số các quốc gia trong quan hệ quốc tế đều thừa nhận nguyên tắc công dân quốc gia mang một quốc tịch là quốc tịch của quốc gia( nguyên tắc một quốc tịch). Tuy nhiên thực tế vẫn xuất hiện tình trạng công dân của quốc gia đồng thời mang hai hay nhiều quốc tịch, điều đó đồng nghĩa với việc người hai hay nhiều quốc tịch sẽ xác lập mối quan hệ pháp lý giữa họ với không chỉ một quốc gia mà với cả hai hay nhiều quốc gia mà họ mang quốc tịch. Đối với người không quốc tịch, khoản 2 điều 3 Luật quốc tịch 2008 quy định: “ Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài” Như vậy, không quốc tịch được hiểu là tình trạng pháp lý mà theo đó, một người không có quốc tịch của nước nào, hiện tượng này xuất hiện trong các trường hợp sau: Có sự xung đột pháp luật của các nước về vấn đề quốc tịch; Khi một người đã mất quốc tịch cũ nhưng chưa có quốc tịch mới; Khi trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng nguyên tắc nguyên tắc quyền huyết thống mà cha, mẹ là người không quốc tịch. Có thể nói, không quốc tịch là tình trạng không bình thường nên trong phạm vi quốc tế và ngay cả Việt Nam ta, cho đến nay đã có những nỗ lực lớn để giảm bớt tình trạng này. Tóm lại, căn cứ vào chủ thể tham gia thì quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra trong các trường hợp sau: Giữa người Việt Nam với người nước ngoài, giữa người Việt Nam với người không quốc tịch, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, giữa người không có quốc tịch với nhau thường trú tại Việt Nam. Thứ hai: Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài (điểm C, khoản 4 điều 18LHNGDD2000): Theo quy định này có thể hiểu, pháp luật Việt Nam thừa nhận việc phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ HN&GĐ giữa công dân Việt Nam với nhau theo pháp luật nước ngoài trong một chừng mực nhất định, điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam thừa nhận và cho phép áp dụng luật nước ngoài và tất nhiên đây là một đòi hỏi thực tế khách quan đáp ứng việc củng cố, tăng cường và mở rộng quan hệ đa phương của nước ta với nước ngoài. Ví dụ: Hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở Ba Lan, họ có hai con(một trai, một gái ) cùng bất động sản và động sản ở Ba Lan. Hai người sinh sống với nhau ở Ba Lan 17 năm, nay trở về Việt Nam được 3 năm thì ly hôn. Theo pháp luật Việt Nam, tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ ly hôn, tuy nhiên việc giải quyết chỉ có thể được khi: Tòa án Việt Nam công nhận việc kết hôn của hai công dân Việt Nam ở Ba Lan là hợp pháp; Tài sản của họ ở Ba Lan là hợp pháp Như vậy để đảm bảo quyền lợi của cặp vợ chồng trên cũng như lợi ích của con cái họ, tòa án Việt Nam không thể giải quyết nếu không tính tới việc trong chừng mực nào đó cần thiết phải áp dụng Luật Ba Lan. Qua ví dụ trên cho thấy sự cần thiết phải áp dụng luật nước ngoài để giải quyết các quan hệ sự quốc tế là một nhu cầu khách quan để bảo đảm lợi ích, công bằng xã hội. Tuy nhiên, pháp luật nước ngoài chỉ được xem xét áp dụng đối với quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau trong khoảng thời gian họ cư trú trên lãnh thổ nước đó mà thôi, hơn nữa không phải trong mọi trường hợp Việt Nam đều công nhận tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân đó, theo quy định tại điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005( BLDS2005) và điều 101 Luật HN&GĐ2000 thì về nguyên tắc, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng trên lãnh thổ của Việt Nam để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp quan hệ đó có người nước ngoài tham gia, có quy phạm pháp luật dẫn chiếu tới việc áp dụng đó hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, vì vậy nếu việc kết hôn đó trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam như vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, vi phạm điều kiện kết hôn...thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam sẽ không công nhận, việc áp dụng luật nước ngoài phải luôn gắn liền với việc bảo đảm độc lập, chủ quyền bình đẳng và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh, ổn định chế độ xã hội chủ nghĩa và nền tảng pháp luật của nước ta, chính vì vậy hầu như không thể có việc một quốc gia này đương nhiên lại thừa nhận việc áp dụng pháp luật của một quốc gia khác để điều chỉnh các quan hệ của công dân nước mình. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm C khoản 14 điều 8 Luật HN&GĐ2000 thì quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài là quan hệ giữa “ công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài” . Quy định này là chưa chính xác và cần được sửa đổi bởi lẽ sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó không chỉ theo pháp luật nước ngoài mà còn phải xảy ra ở nước ngoài, có nghĩa là sự kiện pháp lý đó phải phát sinh ở nước ngoài, điều này là phù hợp với quy định tại điều 758BLDS2005: “ Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, hoặc là các quan hệ dân sự giữu các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó tại nước ngoài Thứ ba: Quan hệ giữa công dân Việt Nam với nhau mà tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Trong trường hợp này, các bên chủ thể đều là công dân Việt Nam nhưng tài sản đang tranh chấp lại nằm ở nước ngoài. Tuy nhiên có thể thấy tranh chấp về tài sản ở nước ngoài không chỉ xảy ra giữa công dân Việt Nam với nhau mà còn trong cả quan hệ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Ví dụ: Trường hợp hai vợ chồng được hưởng thừa kế một khối tài sản của gia đình chồng ở Mỹ. Trong Tư pháp quốc tế, khi giải quyết vấn đề tài sản giữa vợ và chồng mà tài sản ở nước ngoài thì vấn đề chọn luật áp dụng sẽ được đặt ra. Như ví dụ trên, việc xác định quan hệ vợ chồng đối với khối tài sản này sẽ do pháp luật của Mỹ hoặc pháp luật của Việt Nam điều chỉnh. Luật Việt Nam sẽ được áp dụng trên cơ sở luật quốc tịch( Lex societatis) của các bên chủ thể, luật Mỹ sẽ được áp dụng trên cơ sở luật nơi có vật. Trong trường hợp này, nếu tài sản là bất động sản thì áp dụng theo nguyên tắc luật nơi có vật( Lex rei sitae) để điều chỉnh. Theo đó, pháp luật của Mỹ sẽ được áp dụng để điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ và chồng * Theo quy định tại khoản 4 điều 100 Luật HN&GĐ2000 thì: “Các quy định của chương này cũng được áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài” Trước khi Luật quốc tịch 2008 được ban hành, thuật ngữ “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài” được sử dụng trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên các văn bản trước đây chưa có sự giải thích rõ ràng khái niệm này. Chẳng hạn, điều 2 Luật quốc tịch 1998 đưa ra hai thuật ngữ “ Người Việt Nam ở nước ngoài” và “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” đồng thời giải thích: “ Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài” và “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài “ là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, làm ăn, sinh sông lâu dài ở nước ngoài”. Cách giải thích này không rõ ràng, đặc biệt là chưa có sự phân biệt giữa “ thường trú ở nước ngoài” và “ cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Luật quốc tịch 2008 ngoài việc lược bỏ thuật ngữ “ Người Việt Nam ở nước ngoài” đã bổ sung giải thích cụm từ “ Người gốc Việt Nam ở nước ngoài”. Theo điều 3 Luật quốc tịch 2008 “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Quy định trên cho thấy, yếu tố cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài, yếu tố quốc tịch là căn cứ quan trọng để phân chia người Việt Nam định cư ở nước ngoài thành hai nhóm là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam. Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài là người dù cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài nhưng họ vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, còn người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài là người đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài. Như vậy, với sự giải thích này, khái niệm “ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài” đã được hoàn thiện và làm sáng tỏ, điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh đất nước hiện nay, khi mà nền kinh tế - xã hội đang trong quá trình thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, điều đó dẫn đến số lượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài ngày càng tăng lên, do đó các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng tăng lên, đây cũng chính là nguyên nhân lý giải tại sao việc điều chỉnh quan hệ HN&GĐ giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài là cần thiết và được coi là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Tóm lại, từ cơ sở lý luận cũng như cở sở pháp lý trên, có thể rút ra khái niệm về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau: Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là các quan hệ hôn nhân và gia đình có một trong các yếu tố sau: Chủ thể là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài 1.1.2. Khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội mà luôn được các nhà triết học, xã hội học, luật học... nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết là nhờ Nhà nước thừa nhận hôn nhân của đôi nam nữ, đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ. Có thể nói, hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một người nữ, sự liên kết đó phải được Nhà nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý đó là đăng ký kết hôn. Như vậy, đăng ký kết hôn làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để hình thành gia đình Cùng với sự tăng cường và
Luận văn liên quan