Luận án Nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở bắc Tây Nguyên

Trong lịch sử nghiên cứu về phân vùng văn hóa Việt Nam, Tây Nguyên vẫn luôn được đánh giá là một khu vực có những nét đặc trưng hoàn toàn khác biệt so với các khu vực còn lại. Hàng loạt nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội về vùng văn hóa Tây Nguyên đã từng được công bố tính từ khoảng giữa thế kỷ trước đến nay cho thấy đây là mảnh đất giàu tiềm năng khai thác về các giá trị văn hóa và nghệ thuật, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Năm 2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Trong không gian đó, tượng nhà mồ là một di sản văn hóa thuộc loại hình mỹ thuật dân gian cũng đang từng bước được bảo vệ và phát huy. Một điểm hạn chế đáng lưu ý trong lịch sử nghiên cứu về vùng văn hóa - nghệ thuật này là tuy các dân tộc tại đây có ít nhất hai nguồn gốc dựa trên ngôn ngữ gồm Mã Lai - Đa Đảo và Môn - Khmer nhưng sự thống nhất rất cao về phong tục tập quán, tín ngưỡng và rất nhiều biểu hiện tương đồng trong nghệ thuật dân gian của họ đã khiến cho các nghiên cứu trước thường quy tất cả đối tượng nghiên cứu vào một khái niệm chung là “các dân tộc Tây Nguyên”. Như vậy, những đặc điểm chung của vùng văn hóa đã được các tác giả chú trọng hơn so với đặc trưng thẩm mỹ riêng trong nghệ thuật của từng dân tộc. Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy sự thiếu vắng các đề tài chuyên biệt về mỹ thuật dân gian của mỗi dân tộc ở Tây Nguyên, đặc biệt, nghiên cứu riêng về tượng nhà mồ lại càng hiếm hoi hơn nữa. Trong suốt thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, Tây Nguyên từng là khu vực phát triển bên lề dòng chảy văn hóa ở đồng bằng, mặc dù có tài liệu ghi nhận rằng trong thời Lê vùng đất này đã từng là phiên quốc của Đại Việt (1471) [33, tr.150] và khoảng giữa thế kỷ 16, hai vị thủ lĩnh tinh thần của người Gia Rai là Pơtao Pui (vua lửa) và Pơtao Ia (vua nước) đã được triều đình nhà Lê phong vương, biên niên sử triều Nguyễn năm 1751 cũng ghi nhận việc “lãnh địa Nước và Lửa đã chịu cống nạp” [26, tr.33]. Nhìn chung, mối quan hệ này vẫn chưa làm thay đổi đời sống tâm linh, tín ngưỡng và sinh hoạt truyền thống cũng như quan điểm thẩm mỹ trong nghệ thuật tạo hình của các dân tộc Tây Nguyên cho đến đầu thế kỷ 20, bằng chứng là tại thời điểm này những nhà truyền giáo và nghiên cứu Dân tộc học người Pháp đã ghi nhận rằng các cộng đồng cư dân nơi đây vẫn duy trì kiểu tổ chức xã hội gần như thời nguyên thủy. Tuy nhiên, chỉ trong vòng một thế kỷ qua, hiện tượng biến đổi xã hội, mai một các giá trị truyền thống ở Tây Nguyên đã trở thành vấn đề nóng bỏng tại các hội thảo từ trung ương đến địa phương về nhiệm vụ bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc trong văn hóa và nghệ thuật Việt Nam. Sự cần thiết và cấp bách của việc nghiên cứu sâu về các đặc trưng thẩm mỹ trong nghệ thuật điêu khắc của từng dân tộc tại đây nhằm lưu giữ lại những bằng chứng lịch sử chính xác, đầy đủ hơn trước khi chúng biến đổi theo chiều hướng lai tạp, mất dần các giá trị bản nguyên cốt lõi là một trong những lý do chính thôi thúc NCS hướng về tượng nhà mồ Gia Rai khi xác định đề tài luận án.

pdf305 trang | Chia sẻ: Đào Thiềm | Ngày: 13/01/2024 | Lượt xem: 128 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở bắc Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Hồ Thị Thanh Nhàn NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC TƯỢNG NHÀ MỒ CỦA DÂN TỘC GIA RAI Ở BẮC TÂY NGUYÊN LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Tp. Hồ Chí Minh – 2023 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Hồ Thị Thanh Nhàn NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC TƯỢNG NHÀ MỒ CỦA DÂN TỘC GIA RAI Ở BẮC TÂY NGUYÊN Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật Mã số: 921 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN XUÂN TIÊN Tp. Hồ Chí Minh – 2023 i LỜI CẢM ƠN VÀ CAM ĐOAN Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS.Nguyễn Xuân Tiên đã tận tâm hướng dẫn và đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi, xin cảm ơn khoa Sau Đại Học của trường đại học Mỹ thuật Tp.HCM, Ban Giám Hiệu cùng các phòng ban liên quan đã tổ chức đào tạo và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Bên cạnh đó, tôi xin cảm ơn GS.TS.Từ Thị Loan (nguyên Viện trưởng Viện Vĕn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam) và TS.Nguyễn Thị Kim Vân (nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai) đã tin tưởng giới thiệu tôi dự tuyển khóa đào tạo này, cảm ơn trường đại học Vĕn Lang đã hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nâng cao trình độ. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan quản lý vĕn hóa ở các tỉnh Tây Nguyên, những nhà nghiên cứu, các đồng nghiệp từng cung cấp tư liệu và góp ý cho luận án này, chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã quan tâm giúp đỡ tôi trong một số giai đoạn khó khĕn khi thực hiện luận án. Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những vấn đề và kết quả nghiên cứu trong luận án này cùng với các bài báo khoa học có liên quan là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 08/10/2023 Tác giả luận án Hồ Thị Thanh Nhàn ii MỤC LỤC Mở đầu Trang 01 Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 19 1.1. Khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài 19 1.1.1. Nghệ thuật điêu khắc 19 1.1.2. Tượng nhà mồ .. 30 1.1.3. Bắc Tây Nguyên ... 31 1.1.4. Dân tộc Gia Rai 33 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 36 1.2.1. Các lý thuyết Mỹ thuật và quan điểm lý luận Mỹ học dân gian .. 37 1.2.2. Một số lý thuyết bổ trợ từ các chuyên ngành khác ... 43 1.3. Cơ sở thực tiễn của đề tài . 49 1.3.1. Đặc điểm môi trường tự nhiên của tượng nhà mồ Gia Rai .......... 49 1.3.2. Đặc điểm môi trường vĕn hóa của tượng nhà mồ Gia Rai ... 54 Tiểu kết ... 59 Chương 2: Đặc trưng tạo hình của nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên ... 60 2.1. Những đặc trưng chung về tạo hình của tượng nhà mồ Gia Rai .. 60 2.1.1. Các đề tài và nội dung, hình tượng nghệ thuật tương ứng ...... 60 2.1.2. Chất liệu, dụng cụ điêu khắc và thủ pháp tạo hình .. 73 2.2. Đặc điểm tạo hình của tượng nhà mồ Gia Rai theo nhóm địa phương 78 2.2.1. Tượng nhà mồ Gia Rai Aráp 78 2.2.2. Tượng nhà mồ Gia Rai Chon ... 81 2.2.3. Tượng nhà mồ Gia Rai T’buĕn 83 2.2.4. Tượng nhà mồ Gia Rai Chor 85 2.2.5. Tượng nhà mồ Gia Rai Mthur .. 88 2.3. Sự tương đồng và dị biệt của nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ Gia Rai so với một số dân tộc có liên quan ...................... 90 2.3.1. Tương quan với tượng nhà mồ của dân tộc Ba Na ở Bắc Tây Nguyên ... 90 iii 2.3.2. Tương quan với tượng nhà mồ của một số dân tộc khác ở Tây Nguyên .... 102 2.3.3. Tương quan với điêu khắc của dân tộc Chĕm và dân tộc Kinh .. 105 2.3.4. Tương quan với một số dân tộc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương . 110 Tiểu kết .. 112 Chương 3: Bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên . 114 3.1. Giá trị nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên 114 3.1.1. Giá trị bản sắc dân tộc, vượt trội và chiếm lĩnh vị trí trung tâm 114 3.1.2. Giá trị nghệ thuật dân gian trên nền tảng vĕn hóa Mã Lai - Đa Đảo, góp phần định hình vùng vĕn hóa - nghệ thuật Bắc Tây Nguyên ............... 116 3.1.3. Những giá trị đóng góp mới cho Mỹ thuật Việt Nam hiện đại .. 117 3.2. Thách thức và hiệu quả của hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên hiện nay . 127 3.2.1. Thách thức từ việc biến đổi của môi trường tự nhiên 128 3.2.2. Thách thức từ việc biến đổi của môi trường vĕn hóa .. 129 3.2.3. Thách thức từ việc suy giảm của tượng nhà mồ và lực lượng sáng tác .. 131 3.2.4. Hiệu quả của các hoạt động sưu tầm, trưng bày và giới thiệu hiện vật .. 132 3.2.5. Hiệu quả của các hoạt động dự án nghiên cứu và tạc tượng trưng bày .. 134 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật tượng nhà mồ Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên 137 3.3.1. Hỗ trợ kinh phí và tạo cơ hội thực hành sáng tác tượng nhà mồ 137 3.3.2. Sưu tập hiện vật trưng bày ở bảo tàng, biên tập và phát hành sách 139 3.3.3. Tổ chức hội thảo, chuyên đề, tạo cơ hội cho các nhà nghiên cứu .. 140 3.3.4. Phát triển nhánh nghệ thuật mới từ điêu khắc tượng nhà mồ . 142 Tiểu kết .. 145 KẾT LUẬN .. 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO .. 153 PHỤ LỤC . 164 iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BT Bảo tàng GS.TS. Giáo sư, tiến sĩ h. huyện H. Hình HN Hà Nội NCS Nghiên cứu sinh Nxb. Nhà xuất bản PL Phụ lục Tp. Thành phố tr. trang v DANH MỤC PHỤ LỤC Phụ lục 1: Danh sách các bảng thống kê, mô tả ............................................ 164 PL1 - Bảng 1: Danh sách tài liệu nghiên cứu trực tiếp về tượng nhà mồ ......... 164 PL1 - Bảng 2: Thống kê và ghi chú 33 địa điểm khảo sát thực tế ..................... 166 PL1 - Bảng 3: Sự phân bố các đề tài tượng nhà mồ trong khu vực cư trú của các nhóm Gia Rai địa phương ở Bắc Tây Nguyên ............................................ 168 PL1 - Bảng 4: Mô tả, so sánh đặc trưng tạo hình trong nghệ thuật tượng nhà mồ của các nhóm Gia Rai địa phương từ xưa đến nay ............................................ 169 Phụ lục 2: Hình ảnh minh họa ........................................................................ 172 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử nghiên cứu về phân vùng vĕn hóa Việt Nam, Tây Nguyên vẫn luôn được đánh giá là một khu vực có những nét đặc trưng hoàn toàn khác biệt so với các khu vực còn lại. Hàng loạt nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội về vùng vĕn hóa Tây Nguyên đã từng được công bố tính từ khoảng giữa thế kỷ trước đến nay cho thấy đây là mảnh đất giàu tiềm nĕng khai thác về các giá trị vĕn hóa và nghệ thuật, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Nĕm 2005, không gian vĕn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Trong không gian đó, tượng nhà mồ là một di sản vĕn hóa thuộc loại hình mỹ thuật dân gian cũng đang từng bước được bảo vệ và phát huy. Một điểm hạn chế đáng lưu ý trong lịch sử nghiên cứu về vùng vĕn hóa - nghệ thuật này là tuy các dân tộc tại đây có ít nhất hai nguồn gốc dựa trên ngôn ngữ gồm Mã Lai - Đa Đảo và Môn - Khmer nhưng sự thống nhất rất cao về phong tục tập quán, tín ngưỡng và rất nhiều biểu hiện tương đồng trong nghệ thuật dân gian của họ đã khiến cho các nghiên cứu trước thường quy tất cả đối tượng nghiên cứu vào một khái niệm chung là “các dân tộc Tây Nguyên”. Như vậy, những đặc điểm chung của vùng vĕn hóa đã được các tác giả chú trọng hơn so với đặc trưng thẩm mỹ riêng trong nghệ thuật của từng dân tộc. Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy sự thiếu vắng các đề tài chuyên biệt về mỹ thuật dân gian của mỗi dân tộc ở Tây Nguyên, đặc biệt, nghiên cứu riêng về tượng nhà mồ lại càng hiếm hoi hơn nữa. Trong suốt thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, Tây Nguyên từng là khu vực phát triển bên lề dòng chảy vĕn hóa ở đồng bằng, mặc dù có tài liệu ghi nhận rằng trong thời Lê vùng đất này đã từng là phiên quốc của Đại Việt (1471) [33, tr.150] và khoảng giữa thế kỷ 16, hai vị thủ lĩnh tinh thần của người Gia Rai là Pơtao Pui (vua lửa) và Pơtao Ia (vua nước) đã được triều đình nhà Lê phong vương, biên niên sử triều Nguyễn nĕm 1751 cũng ghi nhận việc “lãnh địa Nước và Lửa đã chịu cống nạp” [26, tr.33]. Nhìn chung, mối quan hệ này vẫn chưa làm thay đổi đời sống tâm linh, tín ngưỡng và sinh hoạt truyền thống cũng như quan điểm thẩm mỹ trong nghệ thuật tạo 2 hình của các dân tộc Tây Nguyên cho đến đầu thế kỷ 20, bằng chứng là tại thời điểm này những nhà truyền giáo và nghiên cứu Dân tộc học người Pháp đã ghi nhận rằng các cộng đồng cư dân nơi đây vẫn duy trì kiểu tổ chức xã hội gần như thời nguyên thủy. Tuy nhiên, chỉ trong vòng một thế kỷ qua, hiện tượng biến đổi xã hội, mai một các giá trị truyền thống ở Tây Nguyên đã trở thành vấn đề nóng bỏng tại các hội thảo từ trung ương đến địa phương về nhiệm vụ bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc trong vĕn hóa và nghệ thuật Việt Nam. Sự cần thiết và cấp bách của việc nghiên cứu sâu về các đặc trưng thẩm mỹ trong nghệ thuật điêu khắc của từng dân tộc tại đây nhằm lưu giữ lại những bằng chứng lịch sử chính xác, đầy đủ hơn trước khi chúng biến đổi theo chiều hướng lai tạp, mất dần các giá trị bản nguyên cốt lõi là một trong những lý do chính thôi thúc NCS hướng về tượng nhà mồ Gia Rai khi xác định đề tài luận án. Từ góc độ cá nhân: Tuy là người dân tộc Kinh nhưng được sinh ra và lớn lên ở Tây Nguyên, NCS có tình cảm đặc biệt sâu sắc với vùng đất này và mong muốn được đóng góp một phần vào công việc nghiên cứu, gìn giữ các giá trị thẩm mỹ đặc trưng của vùng. Quãng thời gian gắn bó lâu dài tại đây cũng đã cho NCS có được cái nhìn cảm thông và cơ hội tích lũy vốn hiểu biết cơ bản về đời sống tinh thần của người dân địa phương, về những yếu tố tâm lý dân tộc vốn có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành các đề tài và phong cách tạo tác trong nghệ thuật điêu khắc của họ. Từ góc độ quan sát định hướng của nhà nước: Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, bản sắc Việt Nam được định nghĩa là một thể thống nhất nhưng đồng thời lại phải luôn đảm bảo tính đa dạng. Luật Di sản vĕn hóa của Việt Nam [105] nhấn mạnh rằng trong quá trình xây dựng và phát triển, những đặc trưng riêng trong mỹ thuật truyền thống của mỗi dân tộc đều phải được tôn trọng và gìn giữ. Vì vậy, Nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ của dân tộc Gia Rai ở Bắc Tây Nguyên được NCS chọn làm đề tài của luận án với mong muốn góp phần làm rõ các đặc trưng và khẳng định giá trị thẩm mỹ đặt trong mối quan hệ song song với giá trị vĕn hóa của loại hình nghệ thuật điêu khắc dân gian độc đáo này. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu cụ thể, hướng tiếp cận, phương pháp nghiên cứu trong luận án đều hình thành dựa trên những nhận định rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu sẽ được trình bày ngay sau đây. 3 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vùng Tây Nguyên với những nghệ thuật dân gian đặc sắc đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu người Pháp ngay từ nửa đầu thế kỷ 19 nhưng gần đến giữa thế kỷ 20 mới xuất hiện một vài nghiên cứu của tác giả Việt Nam. Bài báo “Tượng gỗ Tây Nguyên” [15] của tác giả Nguyễn Tấn Cứ trên tạp chí Vĕn hóa Nghệ thuật vào nĕm 1979 có thể được xem là công bố khoa học sớm nhất ở Việt Nam về tượng nhà mồ. Đến nĕm 1983, tác giả này tiếp tục xuất bản quyển Nghệ thuật tượng gỗ dân gian Tây Nguyên [16] với hầu hết ảnh minh họa là tượng nhà mồ của hai dân tộc Gia Rai và Ba Na. Trong số 16 hình ảnh tượng gỗ của dân tộc Gia Rai có 7 ảnh được chụp ở khu nhà mồ ghi rõ địa điểm tìm thấy, 8 ảnh hiện vật trưng bày tại BT Mỹ thuật Việt Nam và 1 ảnh hiện vật tại Ty Vĕn Hóa Thông Tin tỉnh Gia Lai Kon Tum không ghi chú rõ địa điểm. Cả hai nghiên cứu trên đều từ góc nhìn Vĕn hóa học, giới thiệu khái quát về tượng nhà mồ như một loại hình nghệ thuật điêu khắc dân gian, chú trọng ý nghĩa và vai trò của tượng trong nghi lễ tang ma. Trong suốt mười nĕm đầu giải phóng, tượng nhà mồ Tây Nguyên không xuất hiện như đối tượng chính trong các nghiên cứu khác. Chuẩn bị cho thời kỳ đổi mới, qua đợt thu thập dữ liệu cho Chương trình Tây Nguyên I, hàng loạt nghiên cứu đã được trung ương phối hợp với địa phương thực hiện nhằm khám phá tiềm nĕng phát triển về vĕn hóa - nghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số tại đây. Tác giả Ngô Vĕn Doanh đã từng công bố một số bài báo trên các tạp chí khoa học có liên quan trực tiếp đến nhà mồ và tượng mồ như sau: Bài báo “Tượng nhà mồ Tây Nguyên (vài suy nghĩ dân tộc học ban đầu)” đĕng trên tạp chí Dân tộc học nĕm 1986 [20] đã gợi mở về ý nghĩa biểu trưng của nhà mồ cùng hệ thống trang trí và tượng gỗ xung quanh, tuy nhiên, những ý nghĩa này đều vẫn chỉ là phỏng đoán như tác giả đã bày tỏ: “Chúng tôi chưa dám đưa ra đây một lý giải, một kết luận nào mà chỉ muốn nói lên những nhận xét trực cảm của người nghiên cứu khi tiếp xúc với rừng tượng gỗ Tây Nguyên” [20]. NCS đã bổ sung hướng tiếp cận đối tượng từ góc nhìn Dân tộc học qua tham khảo quan điểm lý luận của tác giả Ngô Vĕn Doanh: Cĕn tính (identity) của mỗi dân tộc là yếu tố ảnh hưởng lớn đến cách thức phản ứng của dân tộc đó trước sự thay đổi của môi trường sống. Dân tộc 4 Gia Rai vốn di cư từ các quần đảo Mã Lai đến Việt Nam, họ bắt buộc phải có khả nĕng đáp ứng tốt với sự thay đổi môi trường sống thì mới có thể tồn tại và phát triển. Khả nĕng này đã dẫn tới một số điểm khác biệt trong ngôn ngữ tạo hình của tượng nhà mồ ở từng nhóm nhỏ khi họ phản ứng với những kiểu môi trường sống khác nhau. Nĕm 1990, tác giả Ngô Vĕn Doanh có bài “Nhà mồ Tây Nguyên và vĕn hóa khu vực Thái Bình Dương” trên tạp chí Vĕn hóa Dân gian [21] biện luận sâu hơn về cĕn tính của các dân tộc Tây Nguyên và ảnh hưởng của nguồn gốc dân tộc đối với nghệ thuật điêu khắc tại vùng cao nguyên này. Tuy tiêu đề chỉ đề cập đến nhà mồ nhưng nội dung chủ yếu bàn về điêu khắc tượng tròn, vì vậy bài báo này vẫn được xếp vào nhóm các nghiên cứu trực tiếp về tượng nhà mồ. NCS đồng thuận với quan điểm của tác giả: Cần xem xét nghệ thuật ở nhà mồ Tây Nguyên trên phông nền vĕn hóa chung, xem xét mối liên hệ với những dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam cũng như trong khu vực Thái Bình Dương. Tuy nhiên, quy mô có hạn của luận án chỉ cho phép NCS so sánh đối tượng nghiên cứu với tượng nhà mồ của các dân tộc cùng nguồn gốc ở Việt Nam gần gũi nhất là người Ê Đê cư trú ở cao nguyên Đĕk Lĕk liền kề, người Chĕm ở đồng bằng duyên hải miền Trung, đồng thời so sánh qua hình ảnh tham khảo về điêu khắc dân gian ở Malaysia, Indonesia và liên hệ với một trường hợp điêu khắc tương tự của thổ dân Nam Đảo ở Đài Loan. Những mối liên hệ xa hơn nữa dự kiến sẽ được phát triển trong các nghiên cứu sau luận án. Nĕm 1991, trong bài báo “Nghệ thuật xây dựng của nhà mồ Tây Nguyên” đĕng trên tạp chí Dân tộc học [22], tác giả Ngô Vĕn Doanh đã mô tả và có nhận định về tính nghệ thuật trong kiến trúc nhà mồ - môi trường không gian liên kết chặt chẽ với các tác phẩm điêu khắc được nghiên cứu. Bài báo này đồng thời đã cung cấp thêm thông tin cơ bản về bối cảnh ra đời của hệ thống tượng gỗ trang trí và quá trình tạc tượng tại khu nhà mồ. Cùng nĕm 1991, trong bài viết “Phong cách tượng nhà mồ Tây Nguyên từ góc độ thi pháp học” đĕng trên tạp chí Vĕn hóa Dân gian [23], tác giả này lần đầu tiên đưa ra nhận định rõ rệt về phong cách nghệ thuật của đối tượng nghiên cứu: “Bằng thi pháp học, chúng tôi đã phân tích những yếu tố tạo phong cách hay “thi pháp tạo hình” của tượng nhà mồ Tây Nguyên và bước đầu tìm ra hai phong cách 5 chính kế tiếp nhau của nền điêu khắc dân gian độc đáo này” [23]. Theo tác giả bài báo, tượng nhà mồ Tây Nguyên đã hình thành và phát triển qua hai giai đoạn tạm ước định gọi là “giai đoạn thần thoại” và “giai đoạn sử thi”, ứng với hai khái niệm là “lớp tượng cũ” và “lớp tượng mới”: “Ở giai đoạn đầu, phong cách của tượng nhà mồ mang những đặc tính đồng hiện diễn ý hay biểu tượng gợi tả; còn ở giai đoạn thứ hai là phong cách hiện thực trần thuật hay hành động trần thuật” [23]. Đây là những nhận định quan trọng về thủ pháp biểu đạt tuy vẫn còn ở mức độ sơ khởi. Với quy mô nghiên cứu có hạn, nội dung bài báo không bàn luận sâu hơn nữa về các thủ pháp tạo hình đặc trưng trong ngôn ngữ của nghệ thuật điêu khắc như ý đồ bố cục, nhịp điệu của hình khối - mảng - nét, hiệu quả của các thủ pháp xử lý bề mặt chất liệu và ánh sáng - sắc độ trên tác phẩm. Đặc biệt, tác giả bài báo đã chia sẻ một nhận định rất quan trọng: “Ở tượng nhà mồ Tây Nguyên như có một sức mạnh ma thuật hình học mà Lévi Strauss đã phát hiện ra trong mỹ thuật nguyên thủy” [23]. Nhận định này dẫn tới một số tài liệu cung cấp những quan điểm đánh giá mới nhất về mỹ thuật nguyên thủy [56], [61], trong đó lý thuyết Biểu tượng và lý thuyết Cấu trúc - Chức nĕng được cho là cần thiết bên cạnh thao tác đánh giá qua các lý thuyết nghệ thuật. Đến đầu thập niên 1990, một số tài liệu sách đáng chú ý về tượng nhà mồ phát triển từ sau đợt nghiên cứu này đã lần lượt được xuất bản như sau: Tài liệu Nhà mồ và tượng mồ Giarai, Bơhna [24] của tác giả Ngô Vĕn Doanh được xuất bản nĕm 1993. Bên cạnh đối tượng nghiên cứu chính là nhà mồ và tượng mồ, tài liệu này cung cấp những thông tin đầy đủ hơn nữa về thế giới quan, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tang ma và lễ bỏ mả của hai dân tộc Gia Rai và Ba Na. Tác giả đã mô tả chi tiết về các kiểu nhà mồ theo từng nhóm nhỏ địa phương của cả hai dân tộc. Tuy nhiên, phần nội dung về tượng nhà mồ vẫn chỉ dừng lại ở việc phân nhóm tượng theo thời kỳ lịch sử (được gọi là “lớp tượng cũ” và “lớp tượng mới” [23]) kèm theo phỏng đoán về ý nghĩa của chúng. Phần minh họa gồm 33 ảnh đen trắng, trong đó có 17 ảnh tượng nhà mồ và lễ bỏ mả của người Gia Rai nhưng chất lượng in ấn rất thấp, hầu hết các chi tiết nhỏ trên tác phẩm không được thể hiện rõ, rất khó khĕn nếu các nghiên cứu ngày nay cần tham khảo để phân tích về đặc trưng thẩm mỹ. 6 Tài liệu thứ hai đáng chú ý trong cùng giai đoạn này là Điêu khắc gỗ dân gian Giarai-Bahnar của tác giả Trần Phong [81] xuất bản nĕm 1995 gồm 109 bức ảnh được chụp trong các khu nhà mồ Gia Rai (54 ảnh) và Ba Na (55 ảnh), đa số là ảnh chụp tượng tròn. Tác giả này có chú thích thời gian, địa điểm chụp ảnh và các phân nhóm địa phương. Đây là tài liệu ảnh tham khảo có giá trị lịch sử rất cao vì các nghiên cứu ngày nay không thể thu thập hình ảnh những tác phẩm tượng nhà mồ còn nguyên vẹn trong giai đoạn này bằng phương pháp điền dã. Một ưu điểm lớn nữa là thông qua hiệu quả của nghệ thuật nhiếp ảnh, các bề mặt mảng khối lớn, chi tiết nhỏ trên tác phẩm đều được ghi nhận đủ rõ ràng để quan sát và nhận định về giá trị nghệ thuật. Nĕm 2019, tài liệu được tái bản, bổ sung và đổi tên thành Tượng gỗ Tây Nguyên [83]. Sau một thời gian dài ngưng công bố các nghiên cứu mới về đề tài Tây Nguyên, đến nĕm 2007, tác giả Ngô Vĕn Doanh trở lại với quyển Bơ thi, cái chết được hồi sinh (Lễ bỏ mả & nhà mồ Bắc Tây Nguyên) [25], làm rõ hơn nữa về quy trình các bước tạc tượng cho lễ bỏ mả ở khu nhà mồ và ý nghĩa của nghi lễ này đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Tây Nguyên. Nhìn chung, nói đến các công trình nghiên cứu trực tiếp tại những khu nhà mồ ở Tây Nguyên đặc biệt là trong giai đoạn đầu (khoảng từ nĕm 1986 đến nĕm 1995) thì tác giả Ngô Vĕn Doanh là chuyên gia từng công bố nhiều tài liệu nhất mà NCS đã tham khảo. Hầu hết các nghiên cứu của tác giả này đều xuất phát từ góc nhìn Vĕn hóa học hoặc Dân tộc học. Hơn một thập niên sau thời điểm xuất bản quyển sách Nghệ thuật tượng gỗ dân gian Tây Nguyên, tác giả Nguyễn Tấn Cứ mới quay trở lại với nghệ thuật ở khu vực này qua bài báo “Tượng nhà mồ Tây Nguyên” [17] đĕng trên tạp chí Mỹ thuật của Hội Mỹ thuật Tp.HCM nĕm 1995. Vẫn với góc nhìn từ chuyên ngành Vĕn hóa học, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Tấn Cứ đã cung cấp cho lu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghe_thuat_dieu_khac_tuong_nha_mo_cua_dan_toc_gia_ra.pdf
  • doc3. THÔNG TIN TÓM TẮT KL MỚI - HỒ THỊ THANH NHÀN.doc