Luận văn Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945

Trong những năm gần đây ở nước ta, trước nhu cầu giao lưu quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trở thành một trong những vấn đề được sự quan tâm hàng đầu của Đảng. Mục tiêu “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” mà Đảng ta đưa ra đã chứng minh một cách sâu sắc sự quan tâm đó. Hưởng ứng cho lời kêu gọi này của Đảng, ngày càng có thêm nhiều những công trình, những cuộc Hội thảo mang chủ đề văn hoá, bản sắc văn hoá dân tộc đã được tổ chức, mang lại những thành công đáng kể với sự tham gia, ủng hộ của các nhà văn hoá, nhà khoa học, nhà văn cũng như nhà nghiên cứu trên khắp mọi miền đất nước. Vốn là một bộ phận rất quan trọng của văn hoá, trong văn học, bản sắc dân tộc cũng cần được sự quan tâm đúng mức hơn.

pdf110 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------------- Phan Thị Ngọc Giàu BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930-1945 (Khảo sát qua một số tác phẩm tiêu biểu của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Khái Hưng, Nhất Linh) Chuyên ngành: Lý Luận Văn Học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÂM VINH Thành phố Hồ Chí Minh – 2007 LỜI CẢM ƠN VÀ CAM ĐOAN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã giảng dạy và hướng dẫn trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tốt nghiệp. Tôi xin cam đoan và chịu hoàn toàn trách nhiệm về những ý tưởng và tư liệu trong luận văn này là do tôi nghiên cứu, sưu tầm để xây dựng. Người cảm ơn và cam đoan Phan Thị Ngọc Giàu MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây ở nước ta, trước nhu cầu giao lưu quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trở thành một trong những vấn đề được sự quan tâm hàng đầu của Đảng. Mục tiêu “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” mà Đảng ta đưa ra đã chứng minh một cách sâu sắc sự quan tâm đó. Hưởng ứng cho lời kêu gọi này của Đảng, ngày càng có thêm nhiều những công trình, những cuộc Hội thảo mang chủ đề văn hoá, bản sắc văn hoá dân tộc đã được tổ chức, mang lại những thành công đáng kể với sự tham gia, ủng hộ của các nhà văn hoá, nhà khoa học, nhà văn cũng như nhà nghiên cứu trên khắp mọi miền đất nước. Vốn là một bộ phận rất quan trọng của văn hoá, trong văn học, bản sắc dân tộc cũng cần được sự quan tâm đúng mức hơn. Trước nay, trong nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu thường đi sâu tìm hiểu những yếu tố thuộc về tiểu sử, con người tác giả hay những vấn đề nội dung, hình thức của tác phẩm để thấy được ý nghĩa tư tưởng tác giả gửi gắm trong đó, đồng thời khẳng định tài năng sáng tạo của nghệ sĩ trong việc phản ánh, thể hiện con người và cuộc sống. Nói chung, chưa thật đi sâu để nhằm khẳng định bản sắc dân tộc. Trong mỗi con người nghệ sĩ, mỗi tác phẩm văn học hay mỗi nền văn học đều chứa đựng những giá trị của bản sắc dân tộc tuy có sự đậm nhạt khác nhau, sâu sắc hay không sâu sắc. Chính nhờ có sự biểu hiện của bản sắc dân tộc trong văn học đã giúp người đọc có thể phân biệt được nền văn học của dân tộc này với nền văn học của dân tộc khác. Do vậy, nghiên cứu bản sắc dân tộc trong văn học là một trong những vấn đề cần được quan tâm hơn. Trải qua lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc cùng với âm mưu đồng hoá của kẻ thù, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam cho đến nay vẫn không bị mất đi mà luôn đứng vững chính nhờ vào ý thức giữ gìn chủ quyền dân tộc và bản sắc dân tộc của mình. Ý thức giữ gìn bản sắc của dân tộc qua bao thời đại đã được in dấu ấn rất rõ trong những giá trị văn hoá vật chất cũng như tinh thần của dân tộc, đặc biệt là trong nền văn học dân tộc. Trong lịch sử văn học Việt Nam, văn học công khai luôn bị sự kiểm duyệt gay gắt của kẻ thù xâm lược, khó có thể giữ được bản sắc dân tộc nhưng không phải vì thế mà nó không chứa đựng trong mình bản sắc độc đáo của dân tộc, trong đó có những tác phẩm văn học thời kỳ 1930-1945. Cùng với giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, đây là giai đoạn “thăng hoa” của văn học bởi nó đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể với những gương mặt: Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam Với một giai đoạn có nhiều thành tựu như vậy, bên cạnh các vấn đề khác, vấn đề bản sắc dân tộc cũng cần được đặt ra nghiên cứu một cách toàn diện hơn. Vì vậy, “Bản sắc dân tộc trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945” là đề tài được chúng tôi lựa chọn với mong muốn góp một phần dù rất nhỏ trong việc tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học nói riêng, văn hoá nói chung. 2. Lịch sử vấn đề. Vấn đề bản sắc dân tộc (tính dân tộc) trong văn hoá nói chung, văn học Việt Nam nói riêng từ trước đến nay đã được nhiều công trình, nhiều bài viết của nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến với những nội dung, những ý kiến bàn luận giống và khác nhau. Có thể chia quá trình nghiên cứu đó thành hai giai đoạn chính sau: 2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, nước ta còn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới quyền thống trị của thực dân Pháp. Dân tộc mất tự do, nền văn hoá không được tự do phát triển nên vấn đề dân tộc trong văn hoá nói chung, văn học nói riêng chưa có đủ điều kiện để các nhà nghiên cứu đi sâu khai thác. Đề cập đến bản sắc dân tộc, các tác giả trong giai đoạn này chủ yếu chỉ nêu lên quan niệm của mình hoặc chỉ nêu lên tinh thần chung nhằm hướng những nhà văn hoá yêu nước tiến bộ dùng ngòi bút của mình đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho nền văn hoá dân tộc, chống lại những quan điểm phản động, duy tâm, lạc hậu và các thứ văn hoá lai căng, nô dịch, bảo thủ. Đề cập đến tính dân tộc trong giai đoạn này, Lan Khai trên Tao Đàn tạp chí số 4 năm 1939 có trình bày quan niệm của mình thông qua bài viết “Tính cách Việt Nam trong văn chương” (được in lại trong “Tinh tuyển văn học Việt Nam” do Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên). Nói đến tính dân tộc, Lan Khai cho đó “là sự gom góp tất cả các nết hay mà dân tộc ấy sẵn có”[43, tr.893] như tính thật thà chất phác, vui vẻ, dễ làm quen, hiếu khách, sự can đảm, tinh thần yêu nước, lòng trung thành, tận tâm, coi khinh sự chết, của người Việt Nam. Với những tinh thần “đặc biệt” đó của dân tộc, ông kêu gọi các văn nghệ sĩ “phải cố làm cho rõ rệt và mạnh mẽ thêm ở trong những công trình sáng tác văn chương”[43, tr.893]. Dù ý thức được tinh thần dân tộc, việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong văn chương nhưng quan niệm của Lan Khai về vấn đề này có phần nào còn giản đơn. Khác với Lan Khai, Xuân Diệu trong hai bài viết “Tính cách An Nam trong văn chương” và “Mở rộng văn chương” đăng trên Ngày Nay số 145, ngày 28/1/1939 và số148, ngày 4/2/1939 đã mạnh dạn đưa ra quan niệm của mình về tính dân tộc trong văn chương một cách cởi mở và năng động. Bàn về tính dân tộc, trước tiên Xuân Diệu khẳng định, “văn chương An Nam phải có tính cách An Nam” là một điều chí lí và dĩ nhiên, nhưng “tính cách An Nam” là một thuyết dễ nhầm bởi “chỉ một chút cố chấp, một chút hủ lậu cũng đủ biến cái thuyết đẹp đẽ kia thành ra một thuyết chật hẹp, nông nổi”[13, tr.9]. Và ông quan niệm rằng văn chương cũng như con người Việt Nam cần phải đổi mới, phải Âu hoá, nhưng không phải vì thế mà mất đi tính cách dân tộc bởi “những cái ngô nghê phải chết, cái lố lăng phải mất, sự nô lệ trong văn chương không thể nào tạo nên được những tác phẩm lâu bền”[13, tr.9]. Theo ông, “trong văn chương cũng có một luật đào thải tự nhiên; những cái phản với tinh thần quốc văn tất phải tiêu diệt”[13, tr.9]. Ông kêu gọi các nhà thơ hãy gieo trồng những thể cách mới, cảm xúc mới trên cánh đồng văn chương của ta để có những hoa trái mới, đừng nên lo lắng rằng văn chương Việt Nam ta mắc cái bệnh “làm Tây” vì “những cỏ dại không hợp thuỷ thổ sẽ chết ngay từ khi gieo giống”[13, tr.9]. Cũng giống như Lan Khai, Xuân Diệu cho rằng cần phải giữ gìn bản sắc dân tộc trong văn chương. Nhưng theo ông, giữ gìn không phải là khép kín, là “đóng hết của biển, tuyệt hết giao thông, bế tắc cả nước”, là “đành tâm mến yêu một cảnh nghèo đói”[13, tr.9]. Văn chương Việt Nam được viết bằng tiếng Việt Nam, với những hình thức, mẹo luật riêng, cú pháp riêng và theo cái tinh thần riêng mà ta cảm nghe rất rõ tức là ta đã giữ gìn bản sắc của văn chương ta rồi, còn tiếng Việt khi cần cũng phải làm mới, làm giàu cho nó để có thể diễn tả được những cái tinh tế, phức tạp của tình cảm, cảm xúc của con người thời nay. Những lối nói mới của Phương tây đôi khi cũng cần phải đưa vào cho tiếng ta uyển chuyển hơn. Nhấn mạnh điều này, ông viết: “Tôi xin bạn viết văn chú ý rằng khi dùng đúng tiếng Việt Nam theo mẹo luật, theo cú pháp, theo tinh thần Việt Nam thì văn ta là văn Việt Nam; còn chữ ta tha hồ dùng theo những cách mới lạ miễn là đúng nghĩa; còn ý tưởng ta có toàn quyền nói đến gốc, đến ngọn. Ta được rộng phép mở mang trí não ta, tình cảm ta, làm cho con người của ta giàu thêm”[14, tr.6]. Đã hơn nữa thế kỷ qua kể từ khi Xuân Diệu phát biểu trên báo Ngày Nay, những ý kiến của ông vẫn như còn mới như ta vẫn nói hôm nay: dân tộc và hiện đại, truyền thống và hiện đại, kế thừa và cách tân, tiếp thu và sáng tạo, Từ khi ra đời, Đảng ta luôn khẳng định và phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, đề cao tính dân tộc trong văn học, nghệ thuật, đấu tranh chống văn hoá nô dịch và lạc hậu do bọn thực dân Pháp nuôi dưỡng, xem đó là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Năm 1943, trước sự đàn áp phong trào cách mạng của bọn phát xít Nhật – Pháp, chúng dùng mọi thủ đoạn, mọi biện pháp nhằm đàn áp tư tưởng và văn hoá tiến bộ, ra sức tuyên truyền tư tưởng phản động, tư tưởng phong kiến, lạc hậu và nô dịch làm cho văn hoá nước ta bấy giờ bị chia rẽ, lộn xộn, văn học tiến bộ và cách mạng không phát triển được, nếu có thì chỉ phát triển trong nhà tù hoặc bí mật trong nhân dân; và trước yêu cầu đổi mới của cách mạng, Đảng ta đã cho ra đời bản Đề cương về văn hoá Việt Nam. Bản đề cương được soạn thảo một cách rất vắn tắt, khái quát và tuy không tránh khỏi những hạn chế lịch sử, nhưng “đó chính là cương lĩnh hành động đầu tiên về văn hoá, văn nghệ của Đảng, một đường lối văn hoá, văn nghệ hoàn chỉnh được đúc kết kinh nghiệm hơn mười năm lãnh đạo mật trận văn hoá, văn nghệ với ba nguyên tắc lớn: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá. Đó cũng là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn đời sống văn hóa, văn nghệ Việt Nam”[27, tr.316]. Nói về nội dung dân tộc hoá, bản đề cương đã nêu rõ “Chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hoá Việt Nam phát triển độc lập”[9, tr.366]. Nói về tính chất của nền văn hoá mới Việt Nam, bản đề cương cho rằng “Văn hoá mới Việt Nam là một thứ văn hoá có tính dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”[9, tr.367]. Để phát triển và làm rõ những nguyên tắc lớn mà bản Đề cương đã nêu lên, tháng 4/ 1944, đồng chí Trường Chinh viết bài “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam lúc này”. Qua việc phân tích mối quan hệ giữa ba nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng, ông đã khẳng định “Văn hoá mới Việt Nam phải có ba tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng. Riêng văn nghệ mới Việt Nam thì phải có đủ tính dân tộc, tính hiện thực và tính nhân dân”[7, tr.28]. Như vậy, với các bài viết và hai văn kiện được nêu trên, vấn đề tính dân tộc đã được Đảng ta cũng như các nhà nghiên cứu rất quan tâm, trở thành cơ sở lý luận vững chắc, khoa học soi đường dẫn lối cho các nhà văn hoá yêu nước tiến bộ, bằng ngòi bút của mình đấu tranh cho độc lập dân tộc và cho văn hoá dân tộc, chống lại những luận điệu bịa đặt, xuyên tạc, tìm cách bôi nhọ, mạt sát nền văn hoá dân tộc. 2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay. Cách mạng tháng Tám thành công, nước ta giành được độc lập, văn học nghệ thuật dưới sự lãnh đạo của Đảng đã có điều kiện để phát triển tự do hơn. Dưới ánh sáng của bản “Đề cương về văn hoá Việt Nam” và “Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá Việt Nam mới lúc này”, mục tiêu của công tác nghiên cứu lý luận trong những năm sau Cách mạng tháng Tám là phát triển ba nguyên tắc lớn mà Đề cương đã nêu lên, đặc biệt là nguyên tắc dân tộc. Tuy nhiên, chỉ đến những năm 60, vấn đề tính dân tộc mới trở thành mục tiêu quan trọng được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đưa ra bàn bạc, thảo luận một cách khá liền mạch và liên tục. Thật vậy, ngay từ năm 1960 để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của công tác văn chương, nghệ thuật trong thời kỳ mới và quán triệt nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng về văn nghệ, Vụ văn nghệ thuộc Ban tuyên giáo trung ương Đảng đã mở ra một cuộc thảo luận xoay quanh nhiều vấn đề lý luận cơ bản của văn học, nghệ thuật, trong đó có vấn đề tính dân tộc. Hội thảo diễn ra thu hút sự tham gia phát biểu của nhiều nhà nghiên cứu và nghệ sĩ như Hoàng Châu Ký: “Về tính chất dân tộc”, Tạ Mỹ Duật: “Khai thác di sản dân tộc trong kiến trúc”, Hoàng Xuân Nhị: “Về tính chất dân tộc của văn học và nghệ thuật”, Như Phong: “Thử tìm hiểu tính cách dân tộc của con người Việt Nam”, Huy Cận “Tính chất dân tộc của văn nghệ”, Bên cạnh những bài phát biểu nêu trên, bàn về tính dân tộc trong thời kỳ này còn thấy xuất hiện trên các báo bài viết của các tác giả khác như Xuân Trường (“Vài ý nghĩ về nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc của nền văn nghệ mới”,Văn học, số 731, ngày 27/ 01/ 1961), Như Thiết (Về tính chất dân tộc”,Văn hoá, số 4 năm 1962) cùng những bài khác của các tác giả Hồng Chương, Lê Xuân Vũ, Hoàng Xuân Nhị, Mai Thúc Luân, Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là công trình “Tìm hiểu tính cách dân tộc” của tác giả Nguyễn Hồng Phong. Đây được đánh giá là “công trình nghiên cứu đầu tiên về tính dân tộc, kể từ sau hoà bình lập lại”[25, tr.32]. Để mở đầu cho công trình nghiên cứu, tác giả Nguyễn Hồng Phong đặt ra và giải quyết vấn đề “Cần nghiên cứu tính cách dân tộc như thế nào?” để rồi trên cơ sở lý luận chung đó, tác giả đi vào tìm hiểu tính cách dân tộc cổ truyền Việt Nam thông qua đời sống và văn chương nghệ thuật. Đầu năm 1968, Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ IV được tổ chức. Mối quan hệ giữa văn nghệ và dân tộc, vấn đề giữ gìn và phát huy tính dân tộc trong văn học nghệ thuật vốn đã được đặt ra trước đó một lần nữa đã được đưa ra bàn bạc, mở rộng hơn, nhấn mạnh hơn trong Đại hội. Quán triệt tinh thần đó, từ tháng 10 năm 1968 đến tháng 6 năm 1969, Bộ Văn hoá đã mở ra cuộc trao đổi, bàn bạc về tính dân tộc trong âm nhạc. Đến tháng 11 năm 1969, một lần nữa Bộ Văn hoá lại phối hợp với Hội Nhạc sĩ Việt Nam mở ra một Hội nghị lý luận bàn về tính dân tộc trong âm nhạc Việt Nam. Cụ thể như vấn đề nội dung và hình thức dân tộc, làm thế nào để tạo nên tác phẩm mang tính dân tộc đậm đà? Vấn đề kế thừa và phát huy truyền thống âm nhạc dân tộc, vấn đề tiếp thu và vận dụng âm nhạc tiến bộ của thế giới, công tác nghiên cứu và xây dựng lý luận âm nhạc Việt Nam, công tác đào tạo cán bộ âm nhạc cũng như công tác giáo dục thẫm mỹ âm nhạc cho quần chúng. Ông Trường Chinh, Tổng bí thư trung ương Đảng, nhà lý luận đã tham dự và phát biểu tại Hội nghị này. Ngoài ra, còn có đông đảo các nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ sáng tác, biểu diễn, các chuyên viên về huấn luyện, sản xuất nhạc cụ ở trung ương và một số địa phương đã gửi tham luận và tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận như: Hà Huy Giáp với “Nắm vững vốn dân tộc, học tập tinh hoa thế giới để xây dựng một nền âm nhạc hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”, Nguyễn Xuân Khoát với “Cảm xúc tâm hồn chân thành sâu sắc là điều kiện trước tiên của một tác phẩm có tính dân tộc đậm đà”, Hà Xuân Trường với “Bàn thêm về tính dân tộc trong nghệ thuật nhân cuộc thảo luận về tính dân tộc trong âm nhạc”, Cù Huy Cận “Về tính dân tộc trong âm nhạc”, Nguyễn Phúc “Tính dân tộc trong âm nhạc Việt Nam”, Tô Vũ “Một số điểm về tính dân tộc trong âm nhạc”, Nguyễn Đình Tấn “Mấy ý nghĩ về tính dân tộc và tính hiện đại”, Tiếp theo Hội nghị lý luận bàn về tính dân tộc trong âm nhạc Việt Nam, tháng 10 năm 1970, Bộ Văn hoá và Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam đã mở ra một Hội nghị khoa học với sự tham gia của nhiều Đại biểu: Tố Hữu, Hoàng Tùng, Hà Huy Giáp, Hà Xuân Trường, Nông Quốc Chấn, Lưu Trọng Lư, Đình Quang, xoay quanh chủ đề “Tính hiện thực và truyền thống của nghệ thuật sân khấu dân tộc”. Cùng với các Hội nghị bàn về tính dân tộc nêu trên, giới nghệ thuật tạo hình trong những năm này cũng thấy cần phải tổ chức những cuộc hội thảo trao đổi về vấn đề tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Hội thảo đã được diễn ra và đạt được thành công đáng kể với sự tham gia phát biểu của đông đảo các Hoạ sĩ, nhà Điêu khắc, Kiến trúc sư, cán bộ lý luận, và các nhà nghiên cứu phê bình trong cả nước như: Trần Đình Thọ: “Để có những tác phẩm tạo hình đậm đà tính dân tộc”, Trần Văn Cẩn: “Tính chất dân tộc trong nghệ thuật tạo hình”, Trần Hữu Tiềm: “Tìm hiểu về tính dân tộc trong Kiến trúc”, Phạm Gia Giang “Về tính dân tộc trong nghệ thuật tạo hình”, Nguyễn Văn Y: “Tính dân tộc trong nghệ thuật thực dụng”, Nhìn chung, các bài phát biểu trong Hội thảo đều tập trung xoay quanh những vấn đề: Quan niệm về tính dân tộc trong nghệ thuật nói chung, trong nghệ thuật tạo hình nói riêng, thế nào là một tác phẩm mang tính dân tộc đậm đà? Để có một tác phẩm mang tính dân tộc cần phải có những yêu cầu nào? Nội dung và hình thức của một tác phẩm mang tính dân tộc? Mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại cũng như việc kế thừa và phát huy tính dân tộc, tiếp thu tinh hoa thế giới như thế nào? Tuy chủ đề mà các Hội nghị đưa ra là những vấn đề về tính dân tộc trong âm nhạc, sân khấu, nghệ thuật tạo hình Việt Nam, nhưng thông qua những bài tham luận, những vấn đề lý luận về tính dân tộc trong nghệ thuật nói chung cũng đã được đưa ra ở đây như: Quan niệm về tính dân tộc trong nghệ thuật, nội dung và hình thức dân tộc, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức dân tộc trong nghệ thuật, tiêu chí để một tác phẩm nghệ thuật đậm đà tính dân tộc, sẽ là những ý kiến rất có ý nghĩa đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Mặc dù chưa có cuộc hội thảo nào chuyên bàn về tính dân tộc trong Văn học, nhưng với tư cách là một nghệ thuật đặc thù, trên các sách báo, tạp chí bấy giờ đã xuất hiện nhiều những bài viết, bài nghiên cứu hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp về những vấn đề liên quan đến tính dân tộc trong văn học, trong đó nổi bật nhất là “Về tiêu chuẩn tính dân tộc trong tác phẩm văn nghệ” của Như Thiết, tạp chí Văn học, số 4 năm 1970 (được in lại trong sách “Quán triệt tính Đảng trong Mỹ học và Nghệ thuật”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1973) và “Vấn đề tính chất dân tộc trong văn học” của Thành Duy được in trong “Mấy vấn đề lý luận văn học”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1976. Với bài viết “Về tiêu chuẩn tính dân tộc trong tác phẩm văn nghệ”, thông qua việc nêu lên khái quát những quan niệm khác nhau về sự biểu hiện của tính chất dân tộc trong tác phẩm văn nghệ, tác giả bài viết đã khẳng định tính chất dân tộc của tác phẩm văn học được bộc lộ qua toàn bộ các yếu tố của tác phẩm, trong đó nổi bật nhất là hình tượng nghệ thuật. Nếu Như Thiết đề cập đến tính dân tộc của văn học thông qua tính dân tộc của văn nghệ nói chung thì đến Thành Duy, với bài viết “Vấn đề tính chất dân tộc trong văn học”, tác giả đã đề cập một cách trực tiếp đến tính dân tộc trong văn học. Sau khi khái quát về đường lối dân tộc của Đảng ta từ những năm trước Cách mạng tháng Tám đến khi hoà bình lập lại và lịch sử nghiên cứu về tính dân tộc, tác giả đã rút ra năm vấn đề cơ bản về tính dân tộc cần được nghiên cứu. Thứ nhất, về định nghĩa tính chất dân tộc; Thứ hai, mối quan hệ giữa tính chất dân tộc và tính giai cấp; Thứ ba, mối quan hệ giữa tính chất dân tộc và tính quốc tế; Thứ tư, quan hệ giữa tính chất dân tộc và tính hiện đại và cuối cùng là quan hệ giữa tính chất dân tộc và vấn đề truyền thống. Tuy nhiên, ở bài viết này, ý định của tác giả là nhằm đi vào làm rõ mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính giai cấp trong văn học. Bằng những lập luận về mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính chất dân tộc trong nền văn học quá khứ, về mối quan hệ giữa nền văn hoá quá khứ với nền văn hoá vô sản, tác giả đã đi đến kết luận “tính chất dân tộc và tính giai cấp không chỉ có quan hệ khắng khít với nhau, mà đối với chúng ta, nội dung tính chất dân tộc là do hệ tư tưởng của giai cấp vô sản quyết định”[25, tr.467-468]. Bên cạnh hai bài nghiên cứu trên, nói đến tính dân tộc trong văn học chúng ta không thể không nhắc đến nội dung chương “Vấn đề tính chất dân tộc trong l
Luận văn liên quan