Luận văn Đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp

Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, hỏi là một trong những hành động được người bản ngữ sử dụng nhiều khi giao tiếp nhằm thể hiện điều hoài nghi và mong muốn sự giải đáp của người đối thoại. Không riêng ở hành động hỏi mà tất cả các hành động ngôn ngữ đều đòi hỏi phải có sự hồi đáp. Và “không có gì đáng sợ bằng sự thiếu vắng lời hồi đáp” như người ta đã từng nói. Vấn đề hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp cũng đã được đề cập không ít trong các tài liệu ngữ dụng học tiếng Việt, cũng như trong những công trình, những bài viết đăng trên một số tạp chí. Nhưng nhìn chung, cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện, có tính hệ thống. Việc đi sâu nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp ta xác định đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành hỏi trực tiếp trong ngôn ngữ giao tiếp. Nhờ đó chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về vị trí, vai trò và chức năng của nó trong hoạt động giao tiếp. Đồng thời, từ đó, chúng ta xác định được các quy tắc văn hóa ứng xử khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, nói chung, của học sinh, nói riêng. Đó là tính cấp thiết của vấn đề. Chính vì vậy chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là: Đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp

pdf130 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -------------------------------------- Nguyễn Thị Ngọc Hân ĐẶC ĐIỂM LƯỢT LỜI HỒI ĐÁP THUỘC HÀNH ĐỘNG HỎI TRỰC TIẾP TRONG TIẾNG VIỆT GIAO TIẾP Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HAI Thành phố Hồ Chí Minh – 2006 Lời cảm ơn Luận văn này hoàn thành ngoài sự trau dồi học hỏi, nỗ lực học tập và nghiên cứu của bản thân, còn nhờ có sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của quý thầy cô, các anh chị và các bạn học cùng khóa. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính yêu và tri ân sâu sắc PGS.TS Nguyễn Thị Hai, người đã tận tâm, tận tình hướng dẫn khoa học, đã định hướng, gợi mở và truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu. Tôi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô cùng các em học sinh Trường THCS bán công Phú Thọ, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh đã hết lòng giúp đỡ và động viên tôi hoàn thành khóa luận. Xin cảm ơn Phòng Khoa học Công nghệ – Sau đại học và Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện để tôi thực hiện và bảo vệ luận văn. Sau cùng, tôi vô vàn biết ơn gia đình và chân thành cảm ơn bạn bè gần xa đã cổ vũ, khích lệ để tôi an tâm học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn chân thành và sâu sắc! Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2006 Nguyễn Thị Ngọc Hân MỞ ĐẦU 1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, hỏi là một trong những hành động được người bản ngữ sử dụng nhiều khi giao tiếp nhằm thể hiện điều hoài nghi và mong muốn sự giải đáp của người đối thoại. Không riêng ở hành động hỏi mà tất cả các hành động ngôn ngữ đều đòi hỏi phải có sự hồi đáp. Và “không có gì đáng sợ bằng sự thiếu vắng lời hồi đáp” như người ta đã từng nói. Vấn đề hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp cũng đã được đề cập không ít trong các tài liệu ngữ dụng học tiếng Việt, cũng như trong những công trình, những bài viết đăng trên một số tạp chí. Nhưng nhìn chung, cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu rộng, toàn diện, có tính hệ thống. Việc đi sâu nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp ta xác định đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành hỏi trực tiếp trong ngôn ngữ giao tiếp. Nhờ đó chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về vị trí, vai trò và chức năng của nó trong hoạt động giao tiếp. Đồng thời, từ đó, chúng ta xác định được các quy tắc văn hóa ứng xử khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, nói chung, của học sinh, nói riêng. Đó là tính cấp thiết của vấn đề. Chính vì vậy chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là: Đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Nhìn lại lịch sử nghiên cứu ngữ dụng học tiếng Việt, trong khoảng mươi năm trở lại đây, trong các công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu cũng đã đề cập đến vấn đề hồi đáp thuộc hành động hỏi trên bình diện rộng gắn với ba cuộc vận động đặc trưng của hội thoại: trao lời, trao đáp và tương tác. Gần đây, có thể kể đến một số công trình, bài viết gần gũi với đề tài luận văn như: - Lê Đông, trong Luận án Phó tiến sĩ KHNV, 1996, đã tập trung nghiên cứu câu hỏi chính danh trên bình diện ngữ nghĩa – ngữ dụng gắn với sự tác động qua lại của câu trả lời. Qua đó, tác giả khẳng định: trả lời là phản ứng đặc trưng cho hành động hỏi, nó có nhiệm vụ cung cấp lượng tin mà người hỏi cần biết. - Lê Anh Xuân, Các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh, Tạp chí Ngôn ngữ, 2000. Bài viết tập trung mô tả nội dung, cách thức, của các dạng trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh. Chủ yếu khảo sát trên cứ liệu tác phẩm văn chương. - Vũ Thanh Hương, Ngôn ngữ phản hồi của giáo viên trên lớp học ở bậc tiểu học, Tạp chí Ngôn ngữ, 2003, tập trung vào miêu tả và cấu trúc thông tin trong ngôn ngữ phản hồi của giáo viên và phân tích giá trị của nó đối với quá trình tiếp nhận kiến thức của học sinh. - Phạm Văn Tình, Im lặng - một dạng tỉnh lược ngữ dụng, Tạp chí Ngôn ngữ, 2000, tác giả đã xem xét các tình huống im lặng nhằm diễn đạt các nội dung ngữ nghĩa, biểu thị các thái độ khác nhau khi trao đáp Thế nhưng, đặc điểm lượt lời hồi đáp trong hội thoại, nhất là trong hành động hỏi trực tiếp diễn ra trong môi trường dạy học chưa được các nhà nghiên cứu tập trung khai thác sâu và kĩ. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Như trên đã trình bày, mặc dù vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu khai thác, nhưng nó vẫn chưa được nghiên cứu một cách chi tiết, có hệ thống trên cứ liệu tiếng Việt giao tiếp trong môi trường dạy - học. Do đó, việc nghiên cứu nó không phải là hoàn toàn đơn giản. Do tính phức tạp của vấn đề, của việc thu nhập nguồn tư liệu, xử lý tư liệu, cũng như giới hạn thời lượng nghiên cứu, và trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ cho phép, người viết luận văn chỉ miêu tả lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp, dựa trên nguồn tư liệu chủ yếu: một số băng thu từ các cuộc hội thoại trong giờ học của học sinh trung học cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Các phương pháp nghiên cứu khoa học: quan sát, thống kê, phân loại, miêu tả. - Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học: phương pháp phân bố, phương pháp thay thế, phương pháp phân tích ngữ nghĩa, - Phương pháp điền dã: thu băng tự nhiên. Các băng ghi âm ngôn ngữ giao tiếp của thầy – trò diễn ra tại các tiết học chính khóa từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS bán công Phú Thọ, quận 11, tp.HCM. Các tiết học này có nội dung thuộc kiểu bài lĩnh hội tri thức mới, thuộc môn học Ngữ văn (tiếng Việt), và những cuộc hội thoại diễn ra giữa học sinh với nhau trong giờ chơi. 5. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI - Tìm ra đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp. - Xác định vị trí , vai trò và chức năng của lượt lời hồi đáp trong hội thoại. - Hai mục đích trên dẫn đến việc xác định các quy tắc văn hóa ứng xử của người Việt trong giao tiếp bằng ngôn ngữ . - Cố gắng đưa ra một số đề nghị có tính biện pháp nhằm giáo dục cho học sinh có thói quen đáp lại lời hỏi một cách văn hóa, trong các tình huống giao tiếp ở lớp học cũng như ở môi trường sinh hoạt thường ngày. 6. GIÁ TRỊ CỦA ĐỀ TÀI 6.1. Giá trị khoa học - Giúp các nhà nghiên cứu có cái nhìn tổng quan về đặc điểm lượt lời hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong giao tiếp hội thoại. - Trên cơ sở đó các kết quả cũng như các kết luận của luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề hành động ngôn ngữ, nói riêng, cũng như các vấn đề thuộc ngữ dụng học, nói chung. - Nếu đề tài này được triển khai tốt, thì sự thành công của nó sẽ là một đóng góp nhỏ không chỉ vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề thuộc lý thuyết ngữ nghĩa học và ngữ dụng học, mà còn vào việc phát triển các lý thuyết này. 6.2. Giá trị thực tiễn - Những kết quả của việc triển khai đề tài đưa lại sẽ có thể đóng góp được vào việc biên soạn các giáo trình ngữ pháp học, ngữ dụng học và chuyên đề ngữ nghĩa học. - Việc triển khai đề tài này có thể giúp các nhà sư phạm tìm ra một số giải pháp nhằm kích ứng sự phát triển tư duy ngôn ngữ và văn hóa giao tiếp của học sinh. 7. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài Chương 2: Phân loại và miêu tả các phát ngôn hồi đáp thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng Việt giao tiếp Chương 3: Mối quan hệ giữa lượt lời hồi đáp với một số vấn đề hội thoại, lập luận và lịch sự CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Ngôn ngữ học, khi đã có Lý thuyết Ngữ pháp tạo sinh của N. Chomsky, vẫn còn tồn tại những khuynh hướng đi theo chức năng luận. Đến năm 1976, khi giáo trình Subject and topic của Ch. N. Li và S. A. Thompson ra đời, các nhà nghiên cứu đã có thể chọn cho mình hướng đi nào (hình thức luận, chức năng luận) thích hợp. Cuối cùng, người ta đã chọn hướng xem ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp nghĩa là, khi nghiên cứu, người ta xem xét ngôn ngữ trong hoạt động hành chức của nó. 1.1. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ Vào những năm 60 của thế kỷ XX, “Lý thuyết hành động ngôn ngữ” (Speech acts theory) đã được J. Austin và J. Searle đi sâu nghiên cứu và đề xuất trên khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” (Linguistic games) mà Wittgenstein đã nêu ra trước đó. Thuật ngữ Speech atcs theory được các nhà Việt ngữ học dịch khác nhau, cụ thể: 1. Nguyễn Đức Dân gọi là: Lý thuyết hành vi ngôn ngữ [9] 2. Nguyễn Thiện Giáp gọi là: Lý thuyết hành động ngôn từ [23] 3. Đỗ Hữu Châu gọi là: Lý thuyết hành động ngôn ngữ/ Lý thuyết hành vi ngôn ngữ [3] 4. Cao Xuân Hạo gọi là: Lý thuyết hành động ngôn từ/ Lý thuyết hành động ngôn ngữ [26] Để thống nhất cách dùng thuật ngữ trên, trong luận văn, chúng tôi gọi theo cách dịch của Cao Xuân Hạo: Lý thuyết hành động ngôn ngữ. 1.1.1. Hành động ngôn ngữ và các loại hành động ngôn ngữ Thực ra, trước khi có sự ra đời của Lý thuyết hành động ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ học đã nghiên cứu ngữ pháp của câu chủ yếu là phân tích cấu trúc. Câu được đánh giá đúng sai về ngữ nghĩa theo tiêu chuẩn logic. Chẳng hạn, so sánh bốn câu: [9, tr. 16]. (1) - Con coi băng học tiếng Anh này. (2) - Con coi băng học tiếng Anh này đa õ. (3) - Con coi băng học tiếng Anh này chứ bộ. (4) - Con coi băng học tiếng Anh này kia/cơ. Nghiên cứu dưới góc độ của ngữ pháp truyền thống, cả bốn câu trên đều đồng nhất về cấu trúc và hầu như đồng nhất về từ ngữ. Các nhà ngữ pháp chưa chú ý đến giá trị tạo nghĩa câu của các tiểu từ tình thái đứng ở cuối câu. Tuy nhiên, xem xét các hiện tượng hoạt động lời nói theo quan điểm Lý thuyết hành động ngôn ngữ thì bản chất ngữ nghĩa và cú pháp của bốn câu trên khác nhau về cơ bản vì chúng thể hiện mục đích dùng khác nhau, những hành động ngôn ngữ khác nhau. Câu (1): là một lời tường thuật, dùng để trả lời một câu hỏi mà tiền giả định có thể: “Con coi băng học tiếng Anh nào?”. Câu (2): được dùng để trả lời cho câu đề nghị mà tiền giả định có thể: “Con có đi với mẹ không thì bảo”. Ở đây chủ thể tiếp nhận “con” không từ chối việc “đi” với “mẹ”, nhưng trước hết “con” cần thực hiện việc “coi” xong băng học tiếng Anh. Chính từ “đã” làm cho câu (2) có nét nghĩa trên. Câu (3): là một lời thanh minh khẳng định rằng “Con coi băng học tiếng Anh này” nhằm bác bỏ một kết luận rằng “con” đã làm một việc gì đó mà việc đó được coi là không hài lòng. Tiền giả định có thể: “Con lại coi cái gì nữa đấy!”. Câu (4): tiền giả định có thể là có rất nhiều loại băng học tiếng Anh nhưng người ta đã chọn đưa ra một loại băng chưa đúng “ý” của “con”, nên “con” từ chối bằng cách đưa ra một đề nghị như trên. Rõ ràng, cả bốn câu nêu trên đều diễn ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định nào đó, mà người mở lời mẹ - có vai xã hội cao hơn so với người đáp lời – “con”. Bằng phương tiện “lời”, chủ thể “con” đã thể hiện hành động, diễn tả ý định trong từng trường hợp một khác nhau. “Các hành động được thể hiện bằng lời gọi là hành động ngôn từ (speech act). Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một phát ngôn” [23, tr. 38]. “Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ” [3, tr. 88]. Cũng theo Đỗ Hữu Châu: “Trong khi cố gắng biểu hiện mình người ta không chỉ tạo ra các phát ngôn chứa các cấu trúc ngữ pháp và các từ, mà người ta còn thực hiện các hành động bằng các phát ngôn đó”. Chẳng hạn: Phát ngôn sau đây: (5) - Con xin lỗi ngoại, con hổng dám nữa. Trong phát ngôn trên, đứa cháu nói ra lời “xin lỗi” tức là hành động xin lỗi đã được thực hiện. “Các hành động được thực hiện bằng các phát ngôn được gọi chung là hành động nói” [26, tr. 96]. Tuy nhiên, một phát ngôn không giản đơn chỉ có thể tương ứng với một hành động mà nó có thể có nhiều hơn, ví dụ: phát ngôn sau: (6) - Bài toán này khó thực. Trước hết, đây có thể là lời “than” của học sinh khi đứng trước bài toán mà khả năng giải của em chưa đủ tầm. Hoặc, phát ngôn này có thể là lời “khen ngợi” qua nhận xét đánh giá của người kiểm tra theo sát việc học của em học sinh nào đó và nhận thấy rõ sự tiến bộ trong việc tiếp thu kiến thức toán học của em. Xuất phát từ quan điểm cho rằng: “Mục đích cuối cùng của hoạt động ngôn ngữ là thực hiện sự giao tiếp giữa người và người trong xã hội” [26, tr. 6], cho nên việc nghiên cứu câu phải được tiến hành với ý thức không chỉ để lập danh sách các đơn vị ngôn ngữ mà còn để theo dõi cách hành chức của ngôn ngữ thông qua những biểu hiện sinh động của nó khi được sử dụng; quan tâm tới mối quan hệ ngữ nghĩa – ngữ dụng giữa các câu với tính cách là những hành động ngôn ngữ hiện thực, thực hiện ý đồ giao tiếp, chiến lược giao tiếp của các chủ thể nói trong quá trình tương tác liên chủ thể, với cả những yếu tố hiển ngôn lẫn những yếu tố tiền giả định và hàm ngôn Mối quan hệ giữa các nhân tố đó trong một chỉnh thể thống nhất phản ánh cái logic của sự tổ chức ngôn từ, của hành vi hoạt động, của nhận thức. Theo các nhà nghiên cứu, trong bất kỳ trường hợp nào, một phát ngôn được tạo ra bởi ba hành động liên quan nhau. Đó là hành động tạo lời (locutionary act), hành động ở lời (illocutionary act) và hành động mượn lời (perlocutionary act).1 Hành động tạo lời là hành động cơ sở của phát ngôn, là hành động thực hiện một phát ngôn với ý nghĩa và sở chỉ xác định. Trong đó, một phát ngôn được tạo ra (về hình thức và nội dung) từ việc sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ (ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu). Thông thường một phát ngôn đúng được tạo ra bao giờ cũng hướng đến mục đích nhất định. Thực ra khi tạo nên một phát ngôn là trong ý nghĩ chúng ta đã gán cho nó một chức năng nào đó 1 Thuật ngữ này chúng tôi dùng theo cách gọi của Đỗ Hữu Châu và mong muốn làm cho nó có một hiệu quả. Nói khác đi, đó chính là hành động ở lời và hành động mượn lời mà chúng tôi sẽ đề cập dưới đây trong các kiểu hành động ngôn ngữ. Hành động mượn lời thực chất là những kiểu tác động khác nhau về tâm lý, tình cảm của người nói đến người tham gia giao tiếp. Chẳng hạn, làm cho người ta quan tâm, chú ý, tin tưởng hay hoài nghi, lo lắng, run sợ Trong các kiểu hành động ngôn ngữ, người ta đặc biệt quan tâm đến hành động ở lời. 1.1.2. Hành động ngôn ngữ ở lời Hành động ở lời thực chất là những hành động thể hiện các kiểu mục đích phát ngôn: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời mọc, hứa hẹn, khuyên bảo 1.1.2.1. Những hiểu biết cần thiết về hành động ở lời Theo Đỗ Hữu Châu,“Hành động ởø lời là những hành động người nói thực hiện ngay khi nói năng” [3, tr. 89]. Hành động ở lời được thực hiện nhờ hiệu lực giao tiếp của phát ngôn. Nó thực chất là những hành động thể hiện các kiểu mục đích phát ngôn như hỏi, trả lời, hứa hẹn, ra lệnh, yêu cầu, điều khiển Ví dụ: (7) - Anh có khỏe không? (8) - Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? (Ngữ văn 8, tập I, NXB Giáo dục) Câu (7): đây là lời thăm hỏi nhau của những người quen biết lâu ngày mới gặp lại. Người hỏi muốn hỏi thăm về tình trạng sức khỏe. Câu (8): hành động hỏi trong phát ngôn của tên cai lệ được phát ra không nhằm mục đích hỏi mà là thể hiện hàm ý đe dọa chị Dậu khi chị nài nỉ xin khất tiền sưu. “Hành động ở lời của phát ngôn là ý đồ giao tiếp của người nói hoặc chức năng mà phát ngôn nhắm thực hiện” [23, tr. 46]. Làm sao người nghe có thể nhận biết được ý đồ giao tiếp của người nói cũng như làm thế nào để người nói dám chắc rằng hành động ở lời mà mình chủ định đó sẽ được người nghe nhận biết? Chẳng hạn, phát ngôn: (9) -“Em sẽ báo anh sau” có thể được giải thích là: a) một lời từ chối, b) một lời hứa. a) Em sẽ báo anh sau. b) Em hứa rằng em sẽ báo anh sau. Như vậy, cùng một phát ngôn nhưng có thể tiềm tàng nhiều hành động ở lời khác nhau. Gần đây, người ta cũng phân biệt hai hành động ở lời: Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp. 1.1.2.2. Hành động ở lời trực tiếp “Hành động ở lời trực tiếp là hành động ngôn ngữ được biểu hiện, được cảm nhận một cách trực tiếp nhờ vào các phương tiện hay dấu hiệu ở lời riêng vốn có trong ngôn ngữ”[19]. Căn cứ vào mục đích phát ngôn, người ta chia câu tiếng Việt thành 4 loại là: câu trần thuật (declarative), câu hỏi (interrogative), câu cầu khiến (imperative) và câu cảm thán (interfetive). Mỗi kiểu câu đều ứng với cấu trúc và chức năng riêng. Chẳng hạn: dùng các hình thức hỏi để biểu hiện ý hỏi: Anh có khỏe không? Cháu về à? Em là Nam phải không?... dùng các hình thức cầu khiến để biểu thị các dạng yêu cầu, mệnh lệnh: Cả lớp giữ trật tự! Hãy im lặng! Cứ tự nhiên đi, em!... “Những phát ngôn có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc với một chức năng là những phát ngôn có hành động ngôn ngữ trực tiếp (direct speech act). Nói cách khác, hành động ngôn ngữ trực tiếp là hành động ngôn ngữ được thực hiện ở những phát ngôn có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng” [23, tr. 54]. 1.1.2.3. Hành động ở lời gián tiếp Hành động ở lời g
Luận văn liên quan