Luận văn Thế giới trẻ thơ trong trăng non của r.tagore

Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể loại. 1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “ người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ.

pdf68 trang | Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 3243 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế giới trẻ thơ trong trăng non của r.tagore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN AN THỤY THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON CỦA R.TAGORE Chuyên ngành: Văn học nước ngoài M số: 602230 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ Thành Phố Hồ Chí Minh- 2007 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: 1.1. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể loại. 1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “ người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ. Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R. Tagore đã để lại cho nhân loại một di sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng: 52 tập thơ, 42 vở kịch, 12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc( trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63 tập tiểu luận và gần 3000 nghìn bức tranh. Ông được coi là biểu tượng của văn hoá Ấn Độ. Với những thành tựu và đóng góp cho văn học dân tộc, ông đã tạo dựng nên một thời đại Tagore bên cạnh các khái niệm thời đại Vê-đa, thời đại sử thi... M. Gandhi tụng xưng ông là Gurudêva – bậc Thánh sư vĩ đại, người dẫn dắt tinh thần và hướng dẫn tâm linh Ấn Độ. Năm 1913, Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương cho tập Thơ Dâng ( Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca thế kỉ, là “ kì công thứ hai của tạo hoá sau Kalidasa” trong văn học Ấn, “ một biểu tượng vĩ đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh tuý Á – Au”. 1.3. Ở Viêt Nam, bạn đọc biết đến Tagore khá sớm nhưng không nhiều như họ đã từng biết đến V. Hugo, Balzac, W. Shakespeare hay Lỗ Tấn Tuy nhiên, từ năm 1984, sau những cố gắng tâm huyết của nhiều nhà Ấn Độ học Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn học Ấn đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống các trường trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học Riêng ở bậc trung học cơ sở, tác phẩm được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non. Đây là tập thơ viết cho thiếu nhi , thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca của Tagore. Để khám phá giá trị nghệ thuật của mảng thơ này , chúng tôi đã chọn đề tài luận văn “ Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore” nhằm hai mục đích: Thứ nhất, có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con ngườ,i tài năng và tư tưởng nghệ thuật của Tagore. Ông không chỉ là “nhà thơ trí tuệ muôn màu”[42, tr. 217], “nhà thơ tình nổi tiếng”[ 45, tr. 849] mà ông còn là nhà thơ của tuổi măng non, người thầy vĩ đại của trẻ thơ Ấn Độ. Thứ hai, góp phần thiết thực hơn cho công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Tagore. 2. Lịch sử vấn đề: Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati ( 1876), R. Tagore đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được trao giải Nobel thì Tagore thật sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới. Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ em gồm 40 bài, có tên Sisu( trẻ thơ). Năm 1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent Moon ( Trăng non). Tờ The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “a revelation more profound and more subtle than that in the Gitanjali ( một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền ảo hơn trong Thơ Dâng)[chuyển dẫn từ 65, tr.3], còn tờ The Nation của Anh thì nhận thấy đây là “a vision of childhood which is only paralleded in our literature by the work of William Blake” ( một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của William Blake trong nền văn học của chúng ta) [ chuyển dẫn từ 65, tr. 3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời, nó đã mở ra một phương diện khác trong tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tagore khiến cho những nhà nghiên cứu, những độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi phẩm dành riêng cho trẻ thơ này. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tập thơ Trăng non ở Việt Nam. 2.1. Công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Tagore học ở Việt Nam: Từ những năm 1961, giáo sư Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ Tagore, khi viết lời giới thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non: “ đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi đồng”[17, tr.29]. Theo Cao Huy Đỉnh, chính sự trong sáng, hồn nhiên của trẻ đã giúp Tagore biểu hiện “ những triết lí về cuộc đời” một cách sâu sắc và tinh tế. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh đến đặc điểm nghệ thuật “ trí tưởng tượng phong phú” của Tagore “ đã khám phá một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé”[ 17,tr. 29] . Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ ngôn ngữ thích hợp và vô cùng phong phú” mà R. Tagore đã sử dụng trong Trăng non. Ông đã chỉ ra sự khác biệt độc đáo của Tagore và V. Hugo trong những thi phẩm viết về trẻ thơ: “ Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt. Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì diệu của các em và để mô tả cái thế giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô cùng phong phú. Nhưng mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của Tagore cũng là loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn Độ” [42, tr. 211]. Trong cảm nhận của PGS. Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em. Theo ông, chính những hình ảnh, những câu chuyện mang âm hưởng cổ tích đã bộc lộ rõ sự am hiểu tâm lí trẻ thơ của Tagore. Viết về Trăng non, ông còn nhấn mạnh đến thủ pháp đối lập, tương phản được sử dụng trong tập thơ: “Tagore muốn đem tâm hồn trong sáng, bản chất Chân – Thiện – Mĩ đang tồn tại trong trẻ thơ đối lập với bản chất xấu xa, đê tiện đáng khinh của xã hội đồng tiền và quyền lực chi phối”[ 59, tr.158]. Tiếp nối với những nhận định của PGS. Lưu Đức Trung, trong bài “ Chất trí tuệ, điểm sáng thẩm mĩ trong thơ Tagore”, TS. Nguyễn Thị Bích Thuý cũng phân chia thơ Tagore thành ba nội dung lớn: thơ triết luận, thơ tình yêu và thơ viết cho trẻ em. Với mảng thơ trẻ em, tác giả tập trung vào tập thơ The Cressent Moon ( Trăng non) và nhận xét: “ Với Trăng non, gồm 40 bài viết về trẻ em, Tagore được coi là V.Hugo của Ấn Độ. Tình thương, tấm lòng trìu mến nâng niu của ông đối với trẻ em thấm đẫm trong từng chữ, từng câu”[ 50, tr.59]. Đồng thời tác giả cũng dẫn lời của nhà thơ Ailen, W. B. Yeats nói về Trăng non để khẳng định một lần nữa ý kiến của mình: “ Khi thi sĩ nói đến trẻ thơ, đặc tính này như một phần của chính thi sĩ thì ta không rõ có phải thi sĩ nói đến thánh nhân hay không?”[50, tr.59]. TS. Đỗ Thu Hà trong quyển “ Tagore, văn và đời” cũng tuân thủ cách phân chia thơ Tagore thành 3 nội dung như trên. Tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát nhất về nội dung và nghệ thuật của tập Trăng non: “ Tagore đã viết những bài thơ để trả lời và lí giải cho các em với những lời thơ dịu dàng, thơ mộng và tràn đầy tình yêu thương, trong đó, ông sử dụng một bút pháp đặc biệt. Ông là người đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa hiện thực và huyền ảo: để thể hiện hiện thực Tagore đã dùng những huyền thoại, những viền giát xung quanh hiện thực của cuộc sống, đem lại cho nó một chiều sâu có tầm vũ trụ.”[26, tr.73] Như vậy, qua những nhận xét của những dịch giả và những nhà nghiên cứu về thơ Tagore ở Việt Nam, chúng ta phần nào có được cái nhìn tổng quát và toàn diện về tập thơ Trăng non ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Các tác giả đều tập trung đề cao tính hồn nhiên, trong sáng của thế giới trẻ thơ và chú ý nhấn mạnh đến những thủ pháp nghệ thuật cơ bản mà Tagore đã sử dụng trong cả tập thơ như một sự gợi mở, định hướng cho những nghiên cứu chuyên sâu về tập thơ Trăng non ở bậc Đại học và sau Đại học. 2.2. Các công trình nghiên cứu tập thơ Trăng non ở các trường Đại học: Ở các trường Đại học, tập thơ Trăng non được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau: + Luận văn thạc sĩ “ Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chương Tagore” của Nguyễn Phương Liên [65] đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng nghệ thuật đã được Tagore sử dụng trong việc xây dựng thế giới trẻ em được thể hiện trong sáng tác văn chương của Tagore ở cả 3 thể loại: thơ, văn xuôi và kịch. Tác giả khẳng định: “ nhiệm vụ của chúng tôi là phân tích các tác phẩm thơ, văn, kịch của Tagore viết về trẻ em, chỉ ra những thủ pháp khác nhau mà Tagore vận dụng trong 3 phương thức sáng tác ấy để thấy được tính đa dạng trong tài năng Tagore”[65, tr.2]. + Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của R.Tagore” của Trần Kim Dung [ 11] quan tâm đến tác dụng của thủ pháp huyền ảo, làm cho thế giới trong Trăng non lung linh, huyền diệu và giàu màu sắc hơn. + Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non” của Nguyễn Thị Ngọc Diệp [ 12] chủ yếu đi vào khai thác nội dung tư tưởng, tình cảm của Tagore dành cho trẻ nhỏ được thể hiện trong cả tập thơ. + Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non” của Trần Thị Hoài Phương [38] tập trung tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện trong Trăng non qua thủ pháp so sánh để làm bật nổi sự sáng tạo độc đáo của Tagore trong việc xây dựng một thế giới trẻ thơ hồn nhiên và kì diệu. * Nhìn chung, các công trình này chưa đặt việc nghiên cứu tập thơ Trăng non trong một hệ thống một cách toàn diện. Cho đến nay ở bậc sau đại học( thạc sĩ và tiến sĩ) chưa có luận văn nào đi sâu vào nghiên cứu Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của Tagore ở cả hai phương diện : nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện. 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Đề tài luận văn đi sâu vào nghiên cứu nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện trong tập thơ Trăng non Sử dụng nguyên bản tiếng Anh tập thơ The Cressent Moon do Tagore chuyển dịch từ tiếng Bengali . Đối chiếu với tập thơ đã được dịch sang tiếng Việt ( gồm 40 bài) của các dịch giả Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung trong tập 2, quyển R. Tagore – Tuyển tập tác phẩm [ 45]. Bên cạnh đó, tham khảo thêm bản dịch Mảnh trăng non [46] của Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tác phẩm viết về trẻ thơ của Tagore in trong các tập Thơ Dâng, Hái quả, Người thoáng hiện và trong các sáng tác khác của ông. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp thống kê – phân loại Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát văn bản, giúp thống kê phân loại một cách tỉ mỉ, cụ thể, đầy đủ các hình tượng thơ, những thi pháp đặc trưng mà nhà thơ dùng để chuyển tải ý tưởng của mình trong Trăng non. 4.2. Phương pháp phân tích Qua việc phân tích những bài thơ tiêu biểu trong Trăng non để thấy được cái hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện trong cả tập thơ. 4.3. Phương pháp đối chiếu – so sánh Đối chiếu – so sánh cách sử dụng nghệ thuật so sánh và nhân cách hoá giữa các nhóm đề tài trong Trăng non và giữa Trăng non với các tập thơ khác của Tagore để thấy được nét độc đáo riêng của một tập thơ thiếu nhi. Đối chiếu – so sánh thơ thiếu nhi của R. Tagore với thơ thiếu nhi của các nhà thơ khác để thấy được những sáng tạo riêng của R. Tagore. 5. Cấu trúc luận văn; Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: R. Tagore với trẻ thơ Chương 2: Vẻ đẹp toàn bích của thế giới tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơ trong Trăng non. Cuối cùng là danh mục tư liệu tham khảo. CHƯƠNG 1 R.TAGORE VỚI TRẺ THƠ 1.1. R. Tagore – Thời thơ ấu và những ước vọng của tuổi thơ 1.1.1 Thời thơ ấu của một thiên tài R. Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 trong một gia đình trí thức giàu sang tại vùng Calcutta, xứ Bengal miền Đông Ấn Độ. Gia đình ông thuộc đẳng cấp quý tộc Bà la môn nổi tiếng và được mến phục vì đây là gia đình của những thiên tài, đã có nhiều cống hiến cho công cuộc cải cách xã hội ở Bengal và Ấn Độ. Cha ông, Devendranath, là một lãnh tụ của phong trào cải cách Hindu ở Ấn Độ cuối thế kỉ XIX, đồng thời là một nhà triết học nổi danh đã dốc hết sinh lực, trí tuệ và tiền của để làm việc thiện và hoạt động văn hóa xã hội. Trong gia đình, R. Tagore là con trai út được yêu quý và chiều chuộng nhất. Khi R. Tagore chào đời, cha ông đã xem đó là phúc trời nên đặt tên cho ông là Rabindranath, có nghĩa là mặt trời với mong muốn cậu bé sẽ trở thành nhân tài mang ánh sáng trí tuệ soi rọi sự tăm tối của đất nước Ấn Độ nghèo nàn và đau khổ . Thuở nhỏ, R. Tagore được sống trong thế giới của các gia nhân. Trong Hồi ức sau này, R. Tagore gọi họ là “ vương quốc đầy tớ” một cách kính trọng. Là một cậu bé thích tự do, R. Tagore thường lang thang bắt bướm hái hoa ngoài trời và tụ tập với bọn trẻ cùng phố chơi bi, chơi đáo. Vì thế, mọi người cai quản cậu rất nghiêm ngặt. Những giờ bị phạt trong nhà, cậu thường phóng tầm mắt nhìn ra ngoài cửa sổ ao ước tự do hoặc tìm đến góc nhà ngồi đọc sách. Hễ cầm được cuốn sách nào là Tagore đọc nghiến ngấu suốt ngày. Là cậu bé nhạy cảm, Tagore thường rơi lệ khi đọc những trang sách kể về nỗi đau khổ, chia li của người khác. Ngoài những quyển truyện cổ Ấn Độ, Tagore thường tìm đọc sách nước ngoài viết cho thiếu nhi đã được dịch ra tiếng Bengali. Cậu thích sách của Dickens, V. Hugo và nhất là tác phẩm Rôbinxơn Cruxô của Defoe. Hình ảnh Rôbinxơn chống chọi với bão táp, hòa nhập với thiên nhiên trên hoang đảo khiến Tagore xúc động. Cậu bé lấy đó làm tấm gương cho cuộc sống tự lập của mình. Cuốn sách đã kích thích trong lòng cậu ý tưởng được ra khỏi nhà, được tự do bay nhảy. Vào khoảng thời gian ở Cancutta xảy ra nạn dịch hạch, gia đình Tagore phải qua lánh nạn bên kia bờ sông Patma, một nhánh của con sông Hằng. Sống trong biệt thự gần sông gần gũi với thiên nhiên tươi đẹp, cậu bé Tagore sung sướng vô cùng. Như một con chim sổ lồng, cậu chạy nhảy khắp nơi. Chuyến đi đó là bài học đầu tiên về thiên nhiên của cậu. Trong Hồi kí, Tagore kể lại: “ Cứ mỗi ngày khi màn đêm đã vén lên, tôi thức dậy có cảm giác như chân trời kia đang đem đến cho tôi một bức thư báo nhiều tin tức tốt lành khi tôi bóc nó ra. Tôi vội vàng không để chậm trễ một giây phút ngồi chễm chệ trong chiếc kiệu chuẩn bị đi ra ngoài trời. Ngày nào cũng như ngày nào, tôi được nhìn nước sông Hằng dâng lên hạ xuống, tàu bè xuôi ngược đôi bờ thật rộn rịp, cây ngả bóng xuống dòng sông lấp lánh khi mặt trời lên cao. Hoàng hôn buông xuống rừng cây như ngủ lặng trong một màu đen nhờ nhờ. Có lúc, bất chợt một cơn mưa ập tới xóa nhòa cả chân trời rực sáng. Dòng sông trở nên âm u cuộn lên những con sóng, gió ào tới lay động cả một rừng cây, đôi lúc có cảm giác sợ hãi”. [60, tr. 442] Cảm giác ban đầu về thiên nhiên từ thuở ấu thơ đã gợi cho Tagore một ý niệm : thiên nhiên nhiên cũng có linh hồn giống con người. Sự tươi thắm, kì diệu của hoa, lá của ánh sáng mặt trời đã thức dậy nơi tâm hồn non nớt của cậu bé Tagore một tình yêu thiên nhiên sâu nặng. Cuộc sống bó hẹp trong khuôn viên biệt thự làm cậu cảm giác như bị cầm tù và khi đến tuổi đến trường cậu càng chán ghét không khí buồn tẻ, ngột ngạt của lớp học giữa bốn bức tường. Trong kí ức của Tagore trường học không lưu lại những ấn tượng tốt đẹp: “ Cái khổ của tôi là phải học trong những nhà trường như thế. Tôi đã từng thấy vũ trụ như đã biến mất quanh mình, chỉ được thấy những hàng ghế gỗ, những bức tường vôi trắng xoá. Tôi cương quyết không muốn mình trở thành một đứa bé bị thầy giáo gõ đầu May sao tôi thoát ra được những ngôi trường chật hẹp như cái chuồng hoặc như chiếc giầy bó chân của một người đàn bà Tàu”[45, tr. 459]. Ba lần R.Tagore được gửi đến trường là ba lần cậu bỏ học. Cuối cùng, gia đình phải mời gia sư lại nhà. Gyan Babu, con trai của học giả Vedantavaghish là người thầy đầu tiên của Tagore. Biết Tagore là cậu bé thông minh không thích cách học của trường lớp nên ông đã giảng các tác phẩm văn học nổi tiếng cho Tagore nghe trước rồi yêu cầu cậu dịch từ tiếng Anh , tiếng Sanskrit sang tiếng Bengali. Cách học này đã lôi cuốn Tagore và truyền cho cậu niềm say mê, yêu thích văn chương. Năm lên bảy tuổi, Tagore bắt đầu tập tễnh làm thơ. Làm được bài nào là nhét vào túi áo bài đó. Nhiều người trong vùng rất thích thơ của cậu. Từ nhỏ, Tagore đã nổi tiếng là cậu bé thần đồng của xứ Bengal. Mười ba tuổi, Tagore đăng trường ca Bông hoa rừng ( Benaphul) dài 1600 câu trên tạp chí Mầm kiến thức ( Gyânanka). Tiếp sau đó, cậu sáng tác hai tập thơ Tiếng hát buổi sáng (Prabhat Sangit) và Tiếng hát buổi chiều ( Sandya Sangit). Hai tập thơ nhỏ này đã bộc lộ tài năng và lòng yêu đời, yêu cuộc sống của Tagore. Cha Tagore cũng là một người thầy đắc lực trong việc nâng cao học vấn cho Tagore. Ông luôn tôn trọng tự do của con cái. Từ năm 11 tuổi, ông đã cho Tagore theo mình trong những chuyến du lịch dài ngày lên đỉnh Himalaya, dạy cho Tagore bài học đầu tiên về tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Thuở nhỏ, Tagore không chỉ tự trao giồi ngoại ngữ để học trong sách vở mà còn chú trọng học những người xung quanh, những người lao động bình thường trong “ vương quốc những người đầy tớ “. Tagore rất thích nghe họ kể và ngâm vịnh sử thi Ramayana, hát những bài ca dân gian đầy chất trữ tình, giàu lòng yêu con người. Cái “ vương quốc đầy tớ” này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm hồn và tài năng của Tagore. Có thể nói rằng, cuộc đời của Tagore phân nửa gắn liền với môi trường sáng tạo của những thiên tài, phân nửa gắn liền với văn hóa truyền thống: “Bước đầu của tôi đi vào văn học có nguồn gốc của nó trong những cuốn sách được lớp người tôi tớ yêu thích và truyền tụng”[60, tr. 443]. Suốt quãng đời thơ ấu, Tagore chủ yếu là tự học. Ngoài sách vở thì mảnh vườn thân thiết sau nhà là “ngôi trường” lí tưởng của cậu bé Tagore. Trong “ngôi trường” đó, Tagore được tự do mơ mộng. Những sắc màu kì diệu của thiên nhiên đã đem đến cho cậu những câu hỏi ngây thơ về cuộc sống, cậu ao ước khám phá tất cả bằng trí óc non nớt của mình và từ chối những bài học gò ép nơi lớp học: “ Chúng tôi có một khu vườn nhỏ liền tiếp với nhà chúng tôi, đối với tôi, nó là mảnh đất thần tiên, hàng ngày hiện ra không biết bao nhiêu vẻ đẹp kì diệu...Bầu trời như đem lại cho tôi tiếng gọi bạn bè và cả trái tim tôi, cả cơ thể tôi nữa quen uống vào cái nguồn ánh sáng và yên tĩnh tràn trề của những giờ phút lặng lẽ đó. Tôi lo lắng không bao giờ để quên mất một buổi sáng nào, vì mỗi buổi sáng đều quý cho tôi, còn quý hơn vàng đối với một kẻ cùng khổ tôi được trời phú cho tính hay kinh ngạc, nó giúp cho đứa bé có quyền được vào trong kho tàng huyền bí trong lòng cuộc sống. Tôi lơ là với những bài học vì chúng muốn lôi tôi ra ngoài thế giới ở quanh tôinó muốn cầm tù tôi trong những bức tường đá của các bài học”[ 45, 449]. Nơi trường học thiên nhiên, Tagore học được nhiều điều quan trọng. Ngoài sự yêu thương, chỉ dẫn của gia đình, cậu còn được tự do hoà nhập với thiên nhiên. Điều đơn giản này không phải bất cứ đứa tre nào cũng đều có được. Vì thế, sau này trưởng thành, Tagore đã thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường mới theo lí tưởng của mình: một ngôi trường bình yên cho trẻ thơ Ấn Độ. 1.1.2. Hướng tới một nền giáo dục của người Ấn Độ Giáo dục trẻ bằng tình yêu thương và sự khoan dung chính là tư tưởng chủ đạo mà Tagore muốn chuyển tới những bậc làm cha mẹ và những người chịu trách nhiệm về việc “ trồng người”. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan điểm giáo dục truyền thống của người Ấn Độ và từ trái tim giàu lòng trắc
Luận văn liên quan